1. Khi nào thì chia tài sản thuộc sở hữu chung?

Chia tài sản chung chỉ áp dụng đối với hình thức sở hữu chung có thể phân chia, đó là sở hữu chung của vợ chồng, sở hữu chung theo phần của hộ gia đình, tổ hợp tác và các hình thức sở hữu chung khác ngoại trừ sở hữu chung đối với phần diện tích, trang thiết bị chung trong nhà chung cư, sở hữu chung cộng đồng. Mỗi đồng sở hữu chung đều có quyền yêu cầu phân chia tài sản và quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp đã có sự thỏa thuận trước đó của các chủ sở hữu chung về thời hạn được phân chia. Thời hạn duy trì tài sản chung có thể xác định bằng một khoảng thời gian hoặc bằng một sự kiện cụ thể. Ví dụ, các chủ thể góp tiền để mua một chiếc xe ô tô để kinh doanh vận chuyển hành hóa và có thỏa thuận sau 5 năm thì các chủ thể mới có quyền yêu cầu chia tài sản chung.

Nếu các đồng sở hữu có thỏa thuân chỉ được chia tài sản chung sau 1 khoảng thời gian nhất định thì sau khoảng thời gian này các đồng sở hữu mới có quyền yêu cầu chia tài sản chung: Điều 219 Bộ luật dân sự 2015"nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó"

Như vậy, chỉ khi có quyền yêu cầu chia tài sản chung của một trong những người chủ sở hữu thì vấn đề chia tài sản chung sẽ được đặt ra. Ngoài ra có thể theo yêu cầu, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ví dụ theo khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định:

Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

2. Ai có quyền yêu cầu chia tài sản chung?

Theo Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: "Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung"

Như vậy, mỗi đồng sở hữu chung đều có quyền yêu cầu phân chia tài sản và quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp đã có sự thỏa thuận trước đó của các chủ sở hữu chung về thời hạn được phân chia. Thời hạn duy trì tài sản chung có thể xác định bằng một khoảng thời gian hoặc bằng một sự kiện cụ thể.

Ngoài ra Khoản 2 Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ví dụ trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung có nghĩa vụ phải trả tiền cho một chủ thể khác theo bản án của Tòa án nhưng người này không trả thì khi có yêu cầu của người được thi hành án, Cơ quan thi hành án sẽ tiến hành thi hành án, tiến hành biến pháp kê biên tài sản. Nếu người này không có tài sản riêng thì cơ quan thi hành án sẽ tiến hành kê biên tài sản chung. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

3. Chia tài sản chung như thế nào?

Theo Điều 219 Bộ luật dân sự 2015:

"....khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.....

Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán...."

Như vậy, trước hết tài sản chung được chia bằng hiện vật. Nếu tài sản chung không thể chia cắt theo hiện vật thì chủ thể yêu cầu chia được quyền bán phần quyền sở hữu của mình trong khối tài sản chung đó. Khoản 3 Điều 218 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về bán phần quyền sở hữu chung như sau:

“Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần bản phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bat động sản, 01 tháng đổi với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông bảo về việc bán và các điều kiện bản mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung. Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyến sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại."

4. Quyền sở hữu chung chấm dứt khi nào?

Theo Điều 220 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 220. Chấm dứt sở hữu chung

Sở hữu chung chấm dứt trong trường hợp sau đây:

1. Tài sản chung đã được chia.

2. Một trong số các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung.

3. Tài sản chung không còn.

4. Trường hợp khác theo quy định của luật.

Có 2 nguyên nhân dẫn đến chấm dứt hình thức sở hữu chung là:

- Do chủ thể của tài sản chung có sự thay đổi: theo khái niệm về sở hữu chung được quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật dân sự 2015 thì sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản; thì nay có sự thay đổi từ nhiều chủ thể sang một chủ thể có quyền sở hữu chung. Một trong các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung khi một trong các đồng sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung là động sản hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ thể còn lại. Trong trường hợp này hình thức sở hữu chung chấm dứt và chuyển sang hình thức sở hữu riêng khi chủ sở hữu chung còn lại chỉ có 1 người;

- Do đối tượng của hình thức sở hữu chung không còn: có 2 nguyên nhân được liệt kê trong điều luật trên, đó là do tài sản chung được chia và tài sản chung không còn. Tài sản chung được chia theo quy định tại Điều 219 của Bộ luật dân sự: chủ thể yêu cầu chia có thể là chính các chủ sở hữu chung hoặc bên có quyền yêu cầu thanh toán của một trong các chủ sở hữu chung. Khi tài sản chung bị chia theo hiện vật hoặc trị giá bằng tiền để chia thì mối quan hệ chung giữa các chủ thể ban đầu mất đi, hình thức sở hữu chung chấm dứt. Tài sản chung không còn thường do những nguyên nhân khách quan (như bão tố, sóng thần, lũ lụt...) khiến cho tài sản chung bị tiêu hủy, không còn tồn tại hoặc do chính các chủ thể chung thực hiện các hành vi định đoạt số phận thực tế của tài sản chung như tiêu dùng hết, đập phá, đốt tài sản chung đi.

Ngoài ra, hình thức sở hữu chung còn chấm dứt trong các trường hợp khác do luật quy định như tài sản chung bị trưng thu, trưng thu, tịch thu sung quỹ của Nhà nước...

5. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Khi ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng thường xảy ra tranh chấp do các bên không thỏa thuận được với nhau. Theo nguyên tắc giải quyết tài sản khi vợ chồng ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án sẽ giải quyết. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó.

Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Nếu vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Trân trọng./.