Mục lục bài viết
Theo anh trần văn A thì máy xúc mua chỉ có hóa đơn và lâu ngày để đã bị hỏng nát, khi mua hai bên tôi và anh A chỉ làm giấy ban và có xác nhận của UBND xã vì tôi và anh A cùng 1 xã.
Năm 2012 tôi có cho anh B mượn ( khi cho mượn tôi chỉ có giấy viết tay của vợ chồng Anh B mượn và không có xác nhận của xã cũng như sự chứng kiến của người khác.Cho mượn được khoảng 10 ngày thì anh B có đề nghị bán cho anh B bằng văn bản miệng và tôi đã đồng ý, bằng văn bản miệng với điều kiện khi nào anh B trả tôi đầy đủ tiền thì mới làm thủ tục bán, Anh B hứa sé trả tiền sau 15 ngày, sau 15 ngày anh trả tôi 170.000.000đ( một trăm bẩy mươi triệu đồng) tôi có viết cho anh B một giấy biên nhận 170.000.000đ với nội dung nhận tiền bán mua máy xúc của anh B, số còn lại hai bên thỏa thuận sau 1 tháng anh B trả nốt số tiền thì làm thủ tục sang tên nhưng sau đó Anh B không thực hiện đúng và cứ hứa hẹn trả nhiều lần nhưng không trả sau hơn 1 năm ,sau anh tự động bán máy xúc của tôi và chốn đi miền nam không về, tôi đã nhiều lần gọi anh B yêu cầu trả máy nhưng anh ấy không trả .
Vậy cho tôi hỏi, Anh B có phạm tội không? xin trả lời cụ thể. Máy súc của tôi có hợp pháp không? tôi có quyền khởi kiện không ? nếu khởi kiện tôi có quyền lợi gì và nghĩa vụ gì? Nếu khởi kiện tôi có được đền bù thỏa đáng không ? điểm yếu trong trường hợp của tôi là gì?
Rất mong được luật sư tư vấn. Trân trọng cảm ơn!
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật dân sự của công ty luật Minh Khuê.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến gọi:1900.6162
Trả lời:
Chào bạn ! cám ơn bạn đã gửi câu hỏi tới công ty luật Minh Khuê, với thông tin câu hỏi bạn cung cấp chúng tôi xin được tư vấn như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
2. Nội dung câu trả lời:
* Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự:
“Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm…:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. …”
Sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Đây là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên thì mới phạm vào tội này, nếu dưới 4 triệu đồng thì phải hội đủ các điều kiện khác như gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Trong trường hợp bạn hỏi, anh B đã lợi dụng sự tin tưởng của anh để mượn xe sau đó bảo a bán mua lại xe của anh dùng rùi lại bán đi lấy tiền bỏ trốn trong khi số còn nợ chưa trả cho anh , hành vi đó đã cấu thành tôi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản như đã nêu ở trên. Hơn nữa chiếc máy súc của anh trị giá 480.000.000 triệu nên theo quy định tại khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự, trường hợp: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu thì …” sẽ bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm .Như vậy anh B có phạm tội.
Theo quy định tại điều 167 bộ luật dân sự 2005 quy định quyền sở hữu đối với bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất động sản. Quyền sở hữu đối với động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy với chiếc máy súc của bạn phải đăng ký quyền sử hữu thì mới là tài snả hợp pháp nếu như chưa có giấy đăng ký quyền sỡ hữu thì bạn phải có các hóa đơn chứng từ mua bán nguần gốc suất sứ và các tài liệu chứng minh đó là tài sản bạn đã mua và sử dụng một cách hợp pháp không trái với quy phạm pháp luật .
* Theo quy định của bộ luật dân sự thì hợp đồng thể hiện dưới nhiều hình thức và thực tế rất đa dạng. Trong Bộ luật dân sư quy định rất rõ: đồi với các giao dịch hợp đồng mà đối tượng là các tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu như đất đai, nhà ở, ô tô, xe máy.... (tức là các tai sản phải có giấy đăng ký với cơ quan nhà nước : xe máy có giấy đăng ký xe; nhà có giấy chứng nhận quyển sở hữu nhà, đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...) thì khi giao dịch bắt buộc phải lập thành hợp đồng bằng văn bản và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền như : Phòng công chừng, UBND quận huyện...Với tài sản là chiếc máy súc của bạn khi bán hai bên phải lập hợp đồng thành văn bản có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền và chuyển giao quyền sở hữu thì hợp đồng đó mới có hiệu lực như vậy hợp dồng mua bán giữa bạn và anh B là không phát sinh hiệu lực .Bạn có quyền khởi kiện vì theo quy định tại bộ luật tố tụng dân sự quy định thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Quyền và nghĩa vụ của anh được quy định cụ thể trrong bộ luật tố tụng dân sự như sau:
+ Nguyên đơn, bị đơn ngoài việc có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 BLTTDS, còn có các quyền và nghĩa vụ dành riêng cho nguyên đơn, bị đơn được quy định tại Điều 59, 60 BLTTDS. Cụ thể như sau:
– Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
– Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án;
– Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu;
– Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập;
– Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
– Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án tiến hành;
– Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
– Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Tham gia phiên toà;
– Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
– Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng;
– Tranh luận tại phiên toà;
– Được cấp trích lục bản án, quyết định của Toà án;
– Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này;
– Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
– Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án;
– Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
– Nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
– Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
. Ngoài ra, anh còn các quyền và nghĩa vụ khác là:
- Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện;
– Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;
– Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án
* Theo các quy định trên thì bạn chỉ được đền bù thỏa đáng khi có đầy đủ giấy tờ hợp pháp chứng minh được sự mua bán giữa bạn và anh B và anh B thừa nhận điều đó. Điểm yếu của bạn là do hợp đồng mua bán giữa bạn và anh B là bằng miệng và giấy ghi nhận tiền là giấy viết tay nên rất khó để chứng minh được việc mua bán giữa hai người đã xảy ra.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật MInh Khuê