1. Khái niệm hồ sơ vụ án dân sự

Trước hết, vụ án dân sự là việc có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự mà họ không thể thương lượng được nên nhờ Tòa án giải quyết.

Hồ sơ vụ án dân sự là tập hợp các giấy tờ, tài liệu do Toà án thu thập hoặc soạn thảo trong quá trình thụ lí một vụ án dân sự và cần thiết cho việc giải quyết vụ án đó.

Thực tiễn xét xử thường phân biệt các thành phần của hồ sơ theo cách như sau: các ghi chép về lai lịch của vụ án, cho phép phân biệt vụ án này với vụ án khác như ngày thụ lÍ, số thụ lí, lai lịch của cáo bên, của người đại diện, người có quyền và lợi ích liên quan (nếu có), loại vụ việc, Thẩm phán phụ tách vụ việc;... các giấy tờ liên quan đến thủ tục giải quyết vụ án: quyết định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định trưng cầu giám định, các ý kiến, thư từ giao dịch; giấy triệu tập, giấy ủy quyền:.. các giấy tờ, tài liệu liên quan đến nội dung của vụ án: đơn kiện, tường trình, tài liệu chứng minh, piên bản giám định,... các biên bản lấy lời khai, biên pản hoà giải; các ghi chép về diễn biến của các phiên toà; bản án, quyết định của Toà án.

2. Ý nghĩa của hồ sơ vụ án dân sự

Hồ sơ vụ án dân sự giúp Toà án có các thông tin cập nhật về tiến trình thụ lí và giải quyết vụ án, nhất là về các quyết định đã được đưa ra và các biện pháp đã được thực hiện trong quá trình tố tụng, đồng thời, dựng lại diễn biến của việc thụ lí và xét xử vụ án qua các giai đoạn tố tụng. Qua hồ sơ, có thể biết được nội dung của vụ án; đặc biệt, trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp trên có thể dựa vào hồ sơ để có thể hình dung toàn bộ lịch sử của vụ án. Hồ sơ vụ án dân sự còn là nguồn tài liệu, tư liệu cho hoạt động nghiên cứu khoa học luật.

2. Nghiên cứu đơn khởi kiện

Đối với bất kỳ hồ sơ vụ án dân sự nào (vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình...) tài liệu mà Thẩm phán phải nghiên cứu đầu tiên là đơn khỗi kiện của nguyên đơn, đơn khỏi kiện của cơ quan, tổ chức khỏi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người khác.

Dù trước khi thụ lý, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc người có thẩm quyền khác (có thể là Thẩm phán, có thể là Chánh án) đã xem xét, xử lý đơn theo yêu cầu của Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, bổ sung sau khi đơn đã đáp ứng đúng quy định của Điều 189 nêu trên và nguyên đơn đã xuất trình biên lai nộp tạm ứng án phí (đôì vói trưống hợp phải nộp tạm ứng án phí, không được miễn) thì Tòa án mới thụ lý. Dù vậy, qua công tác giám đốc thẩm cho thấy không phải đơn khỏi kiện của tất cả các vụ án dân sự đều đã được xử lý tốt. Có vụ đơn khồi kiện không thể hiện đầy đủ, rõ ràng yêu cầu của đương sự, hoặc đơn khỏi kiện không thuộc thẩm quyển, v.v. vẫn được thụ lý. Do đó, khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải đọc kỹ đơn khồi kiện để biết được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ thấy yêu cầu của nguyên đơn chưa được thể hiện rõ trong đơn khỏi kiện thì phải ghi chép lại để kiểm tra quá trình tô tụng tiếp theo (bản tự khai, biên bản ghi lời khai của nguyên đơn) đã được khắc phục chưa? Nếu chưa được khắc phục thì Thẩm phán cần yêu cầu đương sự trình bày lại cho rõ ràng, đầy đủ yêu cầu của người khởi kiện; kiểm tra vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay thuộc thẩm quyển của cơ quan khác, của Tòa án khác không? Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án vẫn phải kiểm tra đã có đủ điểu kiện để khởi kiện chưa? Thời hiệu khối kiện còn hay hết? Vụ án có thuộc trường hợp đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không? (trừ trường hợp được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật). Người khỗi kiện có quyển khỗi kiện không? Có đủ năng lực hành vi dân sự không?, V.V..

Nếu qua nghiên cứu đơn khồi kiện, kiểm tra các tài liệu thấy có đủ cơ sở xác định vụ án không thuộc thẩm quyền Tòa án, đã hết thời hiệu khỏi kiện, người khởi kiện không có quyền khỏi kiện, chưa đủ điều kiện khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự... thì Thẩm phán phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, không cần nghiên cứu tiếp hồ sơ.

4. Nghiên cứu lời khai của các đương sự

4.1. Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn

Tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tô tụng dân sự hiện hành có quy định:

“Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”.

Theo quy định tại Điểu 200, 201 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ các quy định nói trên có thể kết luận đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nguyên đơn cũng có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Do đó, việc nghiên cứu xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không chỉ căn cứ vào đơn khởi kiện, mà phải căn cứ vào yêu cầu khỏi kiện bổ sung của nguyên đơn trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bộ luật tố tụng dân sự không có quy định về thủ tục, yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán không đề cập vấn đề này. Tòa án Việt Nam là Tòa án nhân dân, theo nguyên tắc Tòa án không gây khó cho người dân thì phải hoạt động theo hướng pháp luật không quy định thì các Tòa án khi thụ lý, giải quyết vụ án không được tự đưa ra thêm các yêu cầu về thủ tục đối với người dân. Vì vậy, nguyên đơn có quyền làm đơn khởi kiện để bổ sung, sửa đổi yêu cầu khỗi kiện, hoặc trình bày trực tiếp với Tòa án và Thẩm phán phải lập biên bản ghi lại yêu cầu này. Biên bản ghi lời khai này phải được công nhận đó là yêu cầu sửa đổi, bổ sung nội dung khỏi kiện hợp lệ của nguyên đơn, Tòa án phải xem xét, giải quyết. Do đó, trong quá trình nghiên cứu lời khai, tài liệu mà nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án, Thẩm phán phải chú ý xem nguyên đơn có sửa đổi, bổ sung yêu cầu khỏi kiện không và nguyên đơn đã xuất trình các tài liệu, chứng cứ chứng minh chưa? Nếu nguyên đơn chưa xuất trình, hoặc xuất trình chưa đầy đủ thì Thẩm phán phải hưóng dẫn và yêu cầu nguyên đơn giao nộp chứng cứ bổ sung.

Việc nghiên cứu lời khai của nguyên đơn nên tiến hành theo thứ tự thời gian, những bản tự khai, biên bản lấy lời khai trước cần nghiên cứu trưóc, và cần chú ý ghi chép tóm tắt các nội dung của từng bản tự khai, biên bản lây lời khai, các yêu cầu của từng nguyên đơn (đối vối vụ án có nhiều nguyên đơn) được thể hiện trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, đặc biệt chú ý ghi tóm tắt các nội dung mới trong mỗi tài liệu. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy nguyên đơn có lời khai mâu thuẫn nhau phải tìm hiểu nguyên nhân, yêu cầu nguyên đơn lý giải việc khai mâu thuẫn đó. Nếu vụ án có nhiều nguyên đơn thì nên nghiên cứu hết lời khai nguyên đơn này mổi chuyển nghiên cứu lời khai của nguyên đơn khác.

Trong mỗi trường hợp, sau khi nghiên cứu lời khai của nguyên đơn phải rút ra được một trong các kết luận sau:

- Lời khai của các nguyên đơn đã đủ, rõ chưa? Có điểm gì nguyên đơn khai chưa rõ, còn mâu thuẫn...?

- Có cần yêu cầu nguyên đơn hay một trong số các nguyên đơn phải trình bày thêm, lấy lời khai thêm vấn đề gì? Có cần đốì chất giữa các nguyên đơn với nhau hoặc với các đương sự khác không? Vấn đề cần đôì chất?

- Có cần yêu cầu nguyên đơn thực hiện việc cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ hay không? Và cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì?

- Nếu nguyên đơn trình bày cơ bản đã rõ và đủ, thì tại phiên tòa cần tập trung vào vấn đề gì và cần ghi rõ yêu cầu đó vào trong bản nghiên cứu.

Sau khi nghiên cứu hết lời khai nguyên đơn, Thẩm phán tiến hành nghiên cứu lời khai của các đương sự khác.

4.2. Nghiên cứu lời khai của bị đơn

Việc nghiên cứu lời khai của bị đơn cũng được tiến hành theo thứ tự thời gian, nắm chắc các điểm bị đơn thống nhất với nguyên đơn và những điểm khác biệt giữa nguyên đơn và bị đơn. Các tài liệu bị đơn đưa ra để chứng minh. Nếu thấy tài liệu bị đơn đưa ra để chứng minh chưa đầy đủ, chưa rõ thì hướng dẫn cho bị đơn tiếp tục cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ. Sau khi nghiên cứu hết lời khai bị đơn này mởi chuyển qua nghiên cứu lời khai bị đơn khác.

Nếu bị đơn có yêu cầu phản tố thì phải xem xét yêu cầu đó có đúng là yêu cầu phản tố như quy định ở khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành và hướng dẫn tại Điều 12 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12- 2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hay đó chỉ là nội dung thể hiện sự không đồng ý toàn bộ hay một phần yêu cầu của nguyên đơn; ví dụ nguyên đơn cho rằng, bị đơn vi phạm hợp đồng mổi thực hiện được một phần công việc theo hợp đồng, số tiền bị đơn đã nhận vượt quá so vối khối lượng công việc đã làm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đó, còn bị đơn cho rằng, đã hoàn thành công việc theo hợp đồng, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, hoặc bị đơn cho rằng số tiền bị đơn đã nhận là chưa đủ so với khối lượng công việc đã hoàn thành, yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán tiếp số tiền còn thiếu so với hợp đồng thì đó không phải là yêu cầu phản tố.

Trong trường hợp yêu cầu của bị đơn đúng là yêu cầu phản tố thì quá trình nghiên cứu phải làm rõ bị đơn đã thực hiện thủ tục phản tố theo quy định của Điều 178 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành chưa? Đó là bị đơn phải tiến hành thủ tục phản tố như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thây bị đơn chưa thực hiện đúng yêu cầu theo Bộ luật tố tụng dân sự quy định, thì Thẩm phán phải hưống dẫn cho bị đơn thực hiện. Nếu hồ sơ thể hiện bị đơn đã được hướng dẫn về thủ tục phản tố, nhưng bị đơn không thực hiện thì sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải rút ra các căn cứ để đi đến kết luận yêu cầu phản tố của bị đơn không được chấp nhận xem xét, giải quyết trong cùng vụ án. Nếu hồ sơ chưa có các tài liệu đó, thì Thẩm phán phải bổ sung, củng cố tài liệu trong hồ sơ về việc không giải quyết yêu cầu phản tố.

Khi nghiên cứu lời khai của bị đơn, vừa phải chú ý các điểm bị đơn thốhg nhất với nguyên đơn, đồng thời phải nắm được các điểm bị đơn khai khác nguyên đơn; các điểm bị đơn khai trước và sau mâu thuẫn nhau, những yêu cầu nào của nguyên đơn không được bị đơn chấp nhận và bị đơn đã cung cấp tài liệu, chứng cứ về vấn để đó chưa? Từ đó rút ra được kết luận có cần lấy lời khai tiếp của bị đơn hay nguyên đơn để làm rõ các điểm mâu thuẫn không? Có cần hướng dẫn bị đơn cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ không? Có cần đối chất giữa nguyên đơn và bị đơn không? Hay đó là các điểm thứ yếu, chỉ cần ra phiên tòa tập trung làm rõ là đủ và dự liệu cả phương pháp, cách thức làm rõ tại phiên tòa về vấn đề này.

Sau khi nghiên cứu hết lời khai bị đơn, nghiên cứu tiếp lời khai, tài liệu của các đương sự khác.

4.3. Nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án (nếu có)

Khi nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần nắm được yêu cầu của họ như thế nào? Yêu cầu đó có phù hợp pháp luật hay không?

Việc nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn cần chú ý cả điểm đương sự khai thống nhất với nguyên đơn và các đương sự khác, cả điểm khai khác với nguyên đơn nhưng lại thống nhất với các đương sự khác, mối quan hệ của đương sự này với nguyên đơn và các đương sự khác (ví dụ là anh em của nguyên đơn...).

Khi nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn cũng cần có các lưu ý tương tự như trường hợp trên.

Đối vối người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phương pháp nghiên cứu tương tự như các đương sự khác.

Nếu các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) có người đại diện tham gia tố tụng, phải nghiên cứu lời khai của người đại diện và lời khai của người đại diện của đương sự nào thì xếp vào tập lời khai của đương sự đó. Về lời trình bày, khai báo của người đại diện của đương sự nào được xác định chính là lời khai của đương sự đó.

4.4. Nghiên cứu lời khai của nhân chứng, các biền bản đối chất

Khi nghiên cứu lời khai của nhân chứng vừa chú ý về độ tuổi, năng lực, nhận thữc, độ chính xác của thông tin, môì quan hệ của nhân chứng với đương sự trong vụ án, vừa chú ý các điểm nhân chứng khai thống nhất vối nguyên đơn hoặc bị đơn... và những điểm khai khác hoặc khai mâu thuẫn vối các đương sự.

Phải chú ý tìm hiểu xem nhân chứng đã biết được các tình tiết, sự kiện, nội dung của vụ án trong hoàn cảnh nào? (trực tiếp chứng kiến, nghe đương sự nào đó nói lại, nghe theo lời kể của ngưòi khác...).

Sau khi nghiên cứu lời khai của đương sự và nhân chứng, nhận thấy có điểm chưa rõ hoặc mâu thuẫn phải rút ra kết luận có cần tiến hành lấy lồi khai tiếp không? Có cần đối chất không? Nội dung cần đối chất? Và các đôì tượng cần đối chất với nhau (giữa nguyên đơn với nhân chứng hay giữa nguyên đơn, bị đơn với nhân chứng...).

Nếu hồ sơ đã có biên bản đôì chất, cần nghiên cứu kỹ các biên bản đôì chất và đôì chiếu với lời khai của các đương sự, nhân chứng có trong hồ sơ với nội dung các biên bản đốĩ chất để từ đó rút ra được việc đối chất đó đã đúng, đã đủ chưa? Có cần đối chất thêm vấn đề gì?... Trên thực tế, có Thẩm phán không biết tiên hành đối chất. Một cuộc đối chất mà nội dung như một buổi lấy lời khai có nhiều người tham gia. Trong biên bản đối chất mà không lý giải, làm rõ các mâu thuẫn thì đó không phải là đối chất, phải tiến hành đôì chất lại. Khi đối chất cần nêu rõ các điểm mâu thuẫn nhau, yêu cầu họ trình bày, lý giải, chứng minh về các vấn đề đang có mâu thuẫn (do lời khai mâu thuẫn nhau, mâu thuẫn tài liệu khác).

Nghiên cứu lời khai, tài liệu mà không rút ra được các vấn đề cần xử lý tiếp một cách đúng đắn thì cũng không phải là việc nghiên cứu đã tốt, đã đạt yêu cầu.

5. Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ khác

Tùy theo từng loại việc tranh chấp, các đương sự sẽ cung cấp cho Tòa án những tài liệu tương ứng, ví dụ hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tặng cho, mua bán tài sản, hàng hóa, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng lao động, bồi thưòng thiệt hại ngoài hợp đồng. Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ các tài liệu này, từ đó tùy theo yêu cầu của nguyên đơn, sự thừa nhận hay phản tố của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Thẩm phán phải tập trung nghiên cứu các yêu cầu đó. Nếu khi nghiên cứu lòi khai của đương sự, Thẩm phán nhận thấy đã có đương sự yêu cầu giám định, đồng ý nộp tiền giám định chữ viết, chữ ký... trong các văn bản đó mà Tòa án chưa tiến hành thủ tục giám định, thì Thẩm phán phải đưa ra kết luận cần cho giám định ngay. Nếu hồ sơ đã có văn bản kết luận giám định mà đương sự không thừa nhận kết luận giám định thì Thẩm phán phải xem thủ tục giám định đã thực hiện đúng quy định pháp luật hay chưa? Nghiên cứu kỹ nội dung kết luận giám định, phương pháp giám định, lý do đương sự không thừa nhận kết luận giám định đó. Kiểm tra tài liệu, hồ sơ xem đương sự có yêu cầu giám định lại hay không?... Từ đó tùy theo yêu cầu của đương sự mà xử lý cho phù hợp. Trong trường hợp một tài liệu, một sự kiện đã được giám định nhiều lần và các kết luận giám định có nội dung trái ngược nhau, Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ từng bản kết luận giám định để xác định giá trị pháp lý và qua đối chiếu với tài liệu, chứng cứ khác để tìm ra nội dung bản kết luận giám định nào là chứng cứ vụ án, có giá trị chứng minh.

Đối với các tranh chấp có liên quan đến bất động sản, có yêu cầu chia hiện vật, khi nghiên cứu phải rút ra được có cần xem xét thẩm định tại chỗ không? Nếu việc xem xét tại chỗ rất cần thì hồ sơ đã có biên bản xem xét tại chỗ chưa? Nếu chưa có phải kịp thời bổ khuyết, nếu hồ sơ đã có bản xem xét thẩm định tại chỗ thì phải xem xét kỹ hình thức và nội dung biên bản xem xét tại chỗ để biết biên bản này đã rõ ràng, cụ thể chưa? Nếu nghiên cứu biên bản xem xét thẩm định tại chỗ mà Thẩm phán không hình dung được bất động sản đó, hoặc có nghi ngờ độ chính xác, có điểm không rõ thì phải hỏi hai bên đương sự, sau khi các đương sự đã trình bày, Thẩm phán thấy biên bản xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện không đúng, hoặc vẫn thấy không rõ, không giúp cho vỉệc phán quyết được đúng và chính xác thì Thẩm phán phải đến xem xét, thẩm định lại tại chỗ.

Trường hợp vụ án có tài sản phải định giá, Thẩm phán phải nghiên cứu cả hình thức và nội dung biên bản định giá đó xem thành phần định giá có đúng quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành không? Các tài sản mà đương sự nêu ra đã được định giá hết chưa, có tài sản nào không được định giá? Vì sao tài sản đó không được định giá? Việc không định giá có hợp lý không? ý kiến của các đương sự về các tài sản không được định giá như thế nào?, V.V.. Đối với số tài sản đã định giá, các đương sự có đồng ý với kết quả định giá không? Lý do vì sao đương sự không đồng ý? Có yêu cầu định giá lại không? Nếu hồ sơ có nhiều biên bản định giá, phải nghiên cứu kỹ cả hình thức, thành phần định giá, xem xét kỹ nội dung của từng bản định giá; các tài sản được định giá trong các biên bản có khổp nhau không? Nếu không khớp phải tìm hiểu vì sao? Việc định giá có khách quan không? Có phù hợp với giá thị trường ỏ thời điểm định giá không? Thòi điểm định giá với thời điểm nghiên cứu, xem xét và sẽ đưa ra xét xử có quá cách xa nhau không? Từ khi định giá đến thòi điểm xét xử có sự biến động mạnh về giá không? Các đương sự có yêu cầu định giá lại hoặc có ý kiến gì khác không?, v.v. để từ đó có hướng xử lý, lựa chọn thích hợp với diễn biến, với tình trạng tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Những vụ có ý kiến của chính quyền cơ sở, đoàn thể, cơ quan, ban ngành mà các ý kiến có sự khác nhau, Thẩm phán cũng phải nghiên cứu hết, không được bỏ qua ý kiến nào. Sau khi nghiên cứu phải rút ra được có cần hỏi lại, lấy lại ý kiến của chính quyển cơ sỏ, đoàn thể nào không? Có cần lấy ý kiến của cả tập thể... không?

Đốì vối các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập từ bất cứ nguồn nào, nếu qua nghiên cứu thấy việc thu thập tài liệu, chứng cứ đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản phốp luật khác có liên quan thì đều phải nghiên cứu kỹ nội dung các tài liệu, chứng cứ đó thì mới giúp cho Thẩm phán đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện sau khi đã nghiên cứu xong toàn bộ hồ sơ vụ án.

Thông thường, việc nghiên cứu hồ sơ theo tuần tự như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, tùy theo diễn biến cụ thể mà có vụ khi đang nghiên cứu lời khai nguyên đơn có thể đôì chiếu ngay vói lời khai của bị đơn, của người có quyến lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản đối chất hoặc các tài liệu khác như bản kết luận giám định, biên bản định giá, V.V.. Trong thực tiễn cho thấy đốì với những vụ án phức tạp, hồ sơ dày, việc nghiên cứu tuần tự, hết lời khai nguyên đơn, hết lời khai đương sự này mới chuyển qua nghiên cứu lòi khai của đương sự khác là một phương pháp hiệu quả.