Mục lục bài viết
1. Bản kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý
Bản kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý là văn bản dùng để cán bộ lãnh đạo quản lý nhìn nhận lại những lỗi sai của mình và được lập ra nhằm tự phê bình, đánh giá, xếp loại chất lượng hàng năm đối với cán bộ lãnh đạo quản lý. Bản kiểm điểm còn làm căn cứ để thực hiện các nội dung về công tác cán bộ; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và Đảng viên.
Các cán bộ lãnh đạo quản lý vừa là người đứng đầu của tổ chức, cơ quan, đơn vị vừa là Đảng viên thì cần thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm của bản thân hơn; không tránh né, nể nang,.. mà nên nhìn nhận một cách tổng quát để có thể xác định ưu điểm, nhược điểm của bản thân để đưa ra giải pháp, cách khắc phục nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
>> Xem thêm: Mẫu bản kiểm điểm Đảng viên cuối năm chi tiết nhất
2. Nội dung của bản kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý
2.1. Ưu điểm và kết quả đạt được
(1) Về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc:
* Về tư tưởng chính trị:
+ Tư tưởng vững vàng trung thành đối với đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; chấp hành, tuyên truyền và vận động gia đình và nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Thường xuyên trau dồi kiến thức; học các nghị quyết, chỉ thị, tham gia các đợt sinh hoạt chính trị giúp nâng cao bản lĩnh chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác cho bản thân và nhân sinh quan của cách mạng.
+ Chấp hành và thực hiện đúng theo quan điểm, chủ trương đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
* Về phẩm chất đạo đức, lối sống:
+ Có lối sống trong sáng, lành mạnh, gương mẫu, thường xuyên tham gia và thực hiện các cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
+ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
+ Có tinh thần cầu thị, lắng nghe, tiếp thu sửa chữa khuyết điểm và đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ý thức xây dựng địa phương, cơ quan đơn vị và giữ gìn đoàn kết nội bộ.
+ Tạo mối quan hệ hòa nhã với đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân.
* Về tác phong, lề lối làm việc:
+ Tích cực sáng tạo, năng động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ; phương pháp làm việc một cách khoa học, dân chủ, đúng nguyên tắc, tinh thần hợp tác, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp.
+ Luôn ý thức được trách nhiệm công việc và nhiệm vụ được giao, tự giác, nhiệt tình trong công việc và luôn phấn đấu để trau dồi bản thân.
* Về tổ chức kỷ luật:
+ Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, có ý thức tổ chức kỷ luật, phục tùng sự phân công, điều động của tổ chức và các cấp có thẩm quyền lãnh đạo.
+ Tích cực tham gia sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đầy đủ theo quy định thực hiện nội quy, quy chế của tổ chức đảng, cơ quan, các đoàn thể đã đề ra.
* Việc đấu tranh phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của cá nhân:
Theo Nghị quyết số 04 - NQ/TW ngày 30 tháng 10 năm 2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và Hướng dẫn 21 - HD/BTCTW về kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tố chức Đảng, Đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thì đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nơi thực hiện chế độ thủ trưởng hay cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa là đảng viên sẽ liên hệ 27 biểu hiện về suy thoại tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
+ Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị:
Thứ nhất, phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đưòng đi lên chủ nghĩa xã hội, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
Thứ ba, nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị, lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, không chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
Thứ năm, trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
Thứ sáu, nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa đương chức với lúc về nghỉ hưu.
Thứ bảy, duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
Thứ tám, tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xã, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.
Thứ chín, vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.
+ Biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống:
Thứ nhất, cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố lý, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
Thứ hai, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
Thứ ba, kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
Thứ tư, mắc bệnh thành tích, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phòng thành tích, "đánh bóng tên tuổi"
Thứ năm, quan liêu, xa rời công chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không năm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân nhân;.....
+ Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ:
Thứ nhất, phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
Thứ hai, phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Thứ ba, nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Thứ tư, kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dung và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ năm, phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước;....
(2) Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao:
+ Việc thực hiện chức trách, quyền hạn theo quy định (đảng, chính quyền, đoàn thể)
+ Kết quả thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ được gia trong năm được lượng hóa bằng sản phẩm cụ thể.
+ Trách nhiệm cá nhân liên quan đến kết quả, hạn chế, khuyết điểm ở lĩnh vực, địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị mình do mình phụ trách.
(3) Việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm
2.2. Hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân
* Hạn chế, khuyết điểm
Hạn chế, khuyết điểm xác định dựa vào: tư tưởng chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đầu hằng năm).
* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm:
Nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa":
+ Suy thoái về tư tưởng chính trị như:
(1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) Khi tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Còn trong phê bình thì vẫn còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phàn người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
(3) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ và bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh;....
+ Suy thoái về đạo đức như:
(1) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; cho tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
(2) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
(3) Thao túng trong công tác cán bộ, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,,, Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
(4) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội;...
* "Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ:
(1) Móc nối, cấu kết với thể lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
(2) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
(3) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
(4) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo; giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước,....
Ngoài ra, bản kiểm điểm của cán bộ quản lý lãnh đạo còn có những nội dung sau: Kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được cấp có thẩm quyền kết luận hoặc được chỉ ra ở các kỳ kiểm điểm trước; Giải trình những vấn đề được gợi ý kiểm điểm; Trách nhiệm của cá nhân đối với những hạn chế, khuyết điểm của tập thể; Phương hướng, biện pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm; Tự nhận mức xếp loại chất lượng.
3. Mẫu bản tự kiểm điểm đối với cán bộ lãnh đạo quản lý (người đứng đầu)
Các cán bộ lãnh đạo quản lý (người đứng đầu) sử dụng Mẫu số 02 - HD KĐ.ĐG 2019 ban hành kèm theo Hướng dẫn số 21 - HD/BTCTW về kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tổ chức Đảng, Đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để thực hiện việc kiểm điểm của mình.
>> Tải ngay: Mẫu số 2 - HD KĐ.ĐG 2019 ban hành kèm Hướng dẫn số 21 - HD/BTCTW
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết "Mẫu bản kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý (người đứng đầu)" mà Luật Minh Khuê muốn gửi đến cho bạn đọc. Nếu có bất kỳ vướng mắc nào về vấn đề pháp lý thì bạn đọc vui lòng liên hệ tới bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến của Luật Minh Khuê theo số 1900.6162 để được hỗ trợ kịp thời. Xin chân thành cảm ơn bạn đọc đã đón đọc!