1. Tạo lập nguồn vốn

Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi 2017 thì: 

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Một số hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại theo quy định mới?
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

1.1 Vốn của ngân hàng

Vốn điều lệ: Là vốn ban đầu được hình thành khi thành lập doanh nghiệp; nhà nước cấp nếu là NHTM Nhà nước (doanh nghiệp Nhà nước), hoặc là cổ đông đóng góp là NHTM cổ phần. Vốn điều lệ tùy thuộc vào quy mô kinh doanh và do luật định.
Vốn bổ sung: Là bộ phận vốn tự có tăng thêm trong quá trình hoạt động, bằng cả trích từ lợi nhuận kinh doanh, các quỹ dự trữ, lãi không chia cho các cổ phiếu hày tài sản, mức đống góp của các cổ đông.
Vốn của bản thân ngân hàng: Chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, công cụ lao động, mở rộng mạng lưới hoạt động, phát triển công nghệ và kỹ thuật ngân hàng, hùn vốn liên doanh liên kết...Vốn tự có vừa làm đệm để chống đỡ rủi ro, vừa làm căn cứ để duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.

1.2 Huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội

Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, ngày càng cao trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Các NHTM tiến hành huy động vốn bằng nhiều hình thức như mở tài khoản tiển gửi thanh toán (tài khoản vãng lai) tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm của dân cư, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của ngân hàng theo kỳ hạn huy động vốn có thể chia vốn huy động làm 2 loại: Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.

1.2.1 Tiền gửi không kỳ hạn

Đối với các NHTM Việt Nam huy động vốn tiền gửi không kỳ hạn có 2 hình thức chính: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư và tiền gửi trên tài khoản tiền thanh toán của các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân.
+ Tiền gửi không kỳ hạn của dân cư: Là hình thức tiền gửi tiền và rút tiền ra khỏi ngân hàng một cách thường xuyên, bất kỳ thời điểm nào. Mục đích của khách hàng không phải gửi tiền để hưởng lãi, mà chủ yếu là để đảm bảo thanh toán và an toàn tài sản.
+ Tiền gửi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân: Mục đích chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu thanh toán. Khách hàng mở tài khoản thanh toán tại các NHTM thông qua tài khoản để ghi “Có” các khoản thu nhập hoặc sử dụng để ghi “Nợ” trả tiền hay rút tiền mặt theo yêu cầu bằng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ thanh toán...
Hai hình thức tiền gửi trên, khách hàng được ngân hàng trả lãi trên số dư “Có” trên tiết kiệm hay trên tài khoản. Đặc điểm của tiền gửi này là lãi suất thấp, không cố định.

1.2.2 Tiền gửi có kỳ hạn

Bao gồm tiền gửi của cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội. Tiền gửi có kỳ hạn thông thường chỉ được rút ra theo kỳ hạn. Đối với tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, khách hàng có thể gửi vào và rút ra theo yêu cầu. Song loại tài khoản này không được phát hành séc, cũng như sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt khác. Khi khách hàng muốn rút trước hạn trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng sẽ tự chuyển từ tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản tiền gửi thanh toán,  và từ tài khoản trên khách hàng mới rút tiền mặt hay chuyển khoản thanh toán khác.

1.2.3 Phát hành giấy tờ có giá

Các NHTM phát hành kỳ phiếu và trái phiếu, đặc điểm là có kỳ hạn và lãi suất khi khoản lãi được hưởng khi đáo hạn thanh toán được ghi ngay trên bề mặt của kỳ phiếu hay trái phiếu. Hình thức huy động vốn này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời gian phát hành nhất định.
Do hoạt động cạnh tranh và đảm bảo lợi ích cho khách hàng có tiền gửi, khách hàng rút vốn trước hạn đều được các NHTM Việt Nam trả lãi không kỳ hạn.

1.2.4 Vốn đi vay

Chủ yếu vay vốn của các NHTM là vay chiết khấu với Ngân hàng Trung ương dòng tiền thanh toán vượt mức dự trữ thanh toán, như trong thanh toán bù trừ và thanh toán các khoản tiền gửi rút ra khỏi ngân hàng. Vay vốn các ngân hàng nước ngoài và các NHTM cho vay lẫn nhau khi nhu cầu tài trợ vốn cho khách hàng đòi hỏi, trong khi chưa tạo lập được nguồn vốn bằng các hình thức khác. Cũng qua hình thức này ngân hàng có thêm khả năng thanh khoản mà không nhất thiết phải bán các tài sản khác, có thể làm thiệt hại cho ngân hàng vì thế phải gia tăng chi phí. Đặc điểm của vốn là lãi suất cao nên các NHTM chỉ tham gia vay vốn khi thực sự cần thiết.

1.2.5 Vốn nhận ủy thác đầu tư

Đây là nguồn vốn ủy thác đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế, theo các chương trình và dự án có mục tiêu riêng.

2. Sử dụng vốn

Qua hoạt động huy động vốn hình thành nên nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn này tiến hành hoạt động tín dụng tạo ra lợi nhuận. NHTM thu lợi nhuận chủ yếu bằng hoạt động cho vay, đầu tư, chiết khấu chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ trung gian khác.

2.1 Hoạt động cho vay

Đó là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền vay theo nguyên tắc có hoàn trả. Căn cứ vào thời gian có thể phân thành 2 hình thức cho vay. Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn.
Theo quyết định số 284/2000/QĐ – NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân hàng nhà nước NHNN Việt Nam, điều 10 về thời gian cho vay có quy định “cho vay ngắn hạn tối đa đến 12 tháng, cho vay trụng hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, cho vay dài hạn từ trên 60 tháng”.
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay bổ sung thiếu hụt về vốn lưu động và khách hàng vay có hoạt động sản xuất kinh doanh và vay vốn tiêu dùng. Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn cho vay của các NHTM.
+ Cho vay trung và dài hạn: Được thực hiện đối với các dự án đầu tư cơ bản,  xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, mua sắm tài sản quy định, thay đổi và chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp... Các đối tượng có kỳ sản xuất, kinh doanh dài ngày, để cho vay trung và dài hạn bắt buộc các NHTM phải có nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn dài hạn hiện đối với các NHTM Việt Nam rất thiếu cho nên tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chưa tương xứng với nhu cầu đầu tư của các thành phần kinh tế.

2.2 Đầu tư

Sau hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng thì đầu tư được xếp hàng thứ hai. Hoạt động đầu tư của các NHTM vừa làm đa dạng loại hình vốn sử dụng vừa mang lại thu nhập, đồng thời còn là khoản dự trữ với các chứng khoán ngắn hạn chất lượng cao. Đầu tư vào gồm các hoạt động chính:
+ Mua các chứng khoán, trái phiếu Chính phủ: Các chứng khoán Chinh phủ được NHTM xem như không có rủi ro. Trong những năm qua và hiện tại ở Việt Nam, trái phiếu Kho bạc Nhà nước (trái phiếu ngắn hạn) qua các đợt phát hành hầu hết là do NHTM mua thông qua phiên đấu giá do NHNN chủ trì. Hoạt động này đối với ngân hàng vừa mang lại thu nhập bằng lãi trái phiếu, vốn đầu tư có tính an toàn cao, có tiềm năng tạo ta các công cụ thanh toán cho các NHTM khi cần thiết.
+ Các chứng khoán khác: Bao gồm các công cụ vay nợ vì NHTM không được nắm giữ cổ phiếu. Trong hoạt động đầu tư ngân hàng quan tâm nhiều nhất đến số lượng và kỳ hạn của các chứng khoán, bởi các chứng khoán có thể không có rủi ro nhưng lại thay đổi đáng kể về giá cả khi lãi suất thay đổi, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận hoặc thiệt hại khi phải bán các chứng khoán. Kỳ hạn đầu tư cho phép có thể tái đầu tư các chứng khoán khác phù hợp hơn.

2.3 Cho thuê tài chính

Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc kỳ hạn thuê, khách hàng mua lại hay tiếp tục thuê tài sản đó, theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê; trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng.

2.4 Bảo lãnh ngân hàng

Là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Thông qua dịch vụ bảo lãnh, Ngân hàng thu phí bảo lãnh trên số tiền khách hàng bảo lãnh theo kỳ hạn bảo lãnh. NHTM cho công ty liên doanh đầu tư vốn nước ngoài hoặc chi nhánh công ty nước ngoài đóng tại Việt Nam vay vốn, việc đảm bảo tiền được thực hiện bằng bảo lãnh của một Ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam.

3. Dịch vụ trung gian

Các dịch vụ trung gian được các NHTM rất coi trọng, bởi hoạt động có tính an toàn và đem lại lợi nhuận cao. Ngoài việc mang lại lợi nhuận trực tiếp qua thu phí dịch vụ trung gian còn góp phần tạo lập nguồn vốn, thông qua các hoạt động thanh toán ký gửi.

3.1 Trung gian thanh toán

Là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán. Thông qua hoạt động này, tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các khoản thanh toán với nhau mà không phải mang theo một lượng tiền mặt bằng hai hình thức:
+ Thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán chuyển khoản) đối với các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng. Nghiệp vụ này được thực hiện từ các phương thức thanh toán do ngân hàng cung cấp như: Séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán...Khách hàng sử dụng các phương thức thanh toán trên để trả tiền cho người hưởng hay đòi tiền cung cấp hàng hóa hay dịch vụ thông qua Ngân hàng.
+ Chuyển tiền thanh toán: Là việc khách hàng có thể trả một khoản tiền ở bất kỳ chi nhánh NHTM nào mà người nhận tiền có hay không có tài khoản tại ngân hàng.
Hiện nay, với công nghệ thanh toán rất phát triển, hoạt động trung gian thanh toán Ngân hàng đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế, tiêu dùng xã hội.

3.2 Dịch vụ ngân quỹ

Điều 67 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam có ghi “ Tổ chức tín dụng được thực hiện dịch vụ thu và phát triển tiền mặt cho khách hàng”.
Ở các nước đang phát triển, dịch vụ ngân quỹ rất đa dạng và hiện đại như các hoạt động gửi, thuê kho két, thu hộ và chi hộ tiền mặt...Đối với các NHTM Việt Nam hoạt động ngân quỹ chiếm một tỷ trọng lớn về lao động và chi phí bởi nhu cầu thanh toán chuyển tiền thanh toán quan hệ tín dụng bằng tiền mặt rất lớn và không có hạn trong khi đó dịch vụ ngân quỹ lại chưa thực sự phát triển, sự xâm nhập vào hoạt động kinh tế - xã hội còn rất khiêm tốn.
+ Dịch vụ cho các nhà xuất nhập khẩu
Hoạt động của các nhà xuất nhập khẩu gắn liền với các dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng như: Nhận và xử lý chứng từ, ứng trước tiền, thanh toán và chuyển tiền quốc tế, các quy định và quản lý ngoại hối.
- Xử lý các chứng từ: NHTM giúp các khách hàng hoạt động sản xuất nhập khẩu sử dụng các bộ chứng từ hàng hóa. Các chứng từ buôn bán quốc tế rất quan trọng, chúng kiểm soát sự vận động của hàng hóa, phải được lập đúng lúc, đúng chỗ, đầy đủ và hợp lý chỉ một điểm nhỏ không rõ ràng trong chứng từ sẽ dẫn đến việc tranh chấp trong thanh toán.
- Thư tín dụng: Người mở thư tín dụng thường là người nhập khẩu (người mua) xin ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng phát hành thư tín dụng) mở rộng khoản tín dụng cho bên xuất khẩu (người bán) theo các điều khoản của thư tín dụng. Ngân hàng phát hành cam kết rằng người bán sẽ được thanh toán cho hàng hóa của mình, với điều kiện người bán phải tuân thủ các điều khoản đã nêu trong hợp đồng được thể hiện bằng nội dung thư tín dụng. Thư tín dụng có lợi thế cho các nhà xuất khẩu vì hàng hóa chắc chắn được thanh toán bằng đảm bảo của Ngân hàng và đồng thời cũng đảm bảo lợi ích của người nhập khẩu.
- Uỷ thác thu: Là quá trình đòi hỏi một khoản tiền ở ngoài thực hiện hay người  thu lợi chi trả. Uỷ thác thu phụ thuộc vào chứng từ có thể dùng cho cả nhập khẩu, xuất khẩu và có thể dưới hình thức các hối phiếu thanh toán ngay hay có kỳ hạn.
- Dịch vụ ngoại hối: Thanh toán quốc tế đòi hỏi việc chuyển đổi loại tiền vay sang loại tiền khác là cần thiết và thường xuyên diễn ra. Các nhà nhập khẩu thường phải mua ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán hàng nhập và các nhà xuất khẩu có thu ngoại tệ phải bán ngoại tệ theo quy định về quản lý ngoại hối của Nhà nước. Để cung cấp các dịch vụ về ngoại hối, các NHTM phải dự trữ tiền gửi dưới các hình thức, tiền gửi của ngân hàng nước ngoài, mua bán trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng, mua bán của cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội có thu ngoại tệ.
Thông qua trung gian là các NHTM, các nhà xuất nhập khẩu còn hạn chế được rủi ro tỷ giá gây ra, bằng các hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn với ngân hàng.

Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật Minh Khuê