Nền văn minh sông Ấn chính là nền văn minh thời cổ đại đầu tiên của Ấn Độ phát triển dọc theo sông Ấn, nằm về phía Tây Bắc của tiền lục địa Ấn Độ. Sự phát triển rực rỡ của văn minh Ấn Độ thời cổ đại đã đạt được những thành tựu nổi bật, còn lưu giữ được cho tới ngày nay.

 

1. Đôi nét về Ấn Độ thời cổ đại

Lịch sử của Ấn Độ bắt đầu vào thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn. Nền văn minh thời đại đồ đá này được kế thừa từ thời đại đồ sắt thuộc thời kỳ Vệ Đà. Phần lớn Ấn Độ lục địa nằm dưới sự cai trị của đế quốc Maurya sau khi tan vớ được thống trị bởi rất nhiều những vương quốc thời Trung cổ.

Nền văn minh lưu vực sông Ấn phát triển rực rỡ nhất là giai đoạn 2600 đến 1900 trước công nguyên, nền văn minh này mang nét đặc trưng là việc xây dựng các thành phố bằng gạch, hệ thống cống thoát nước và những toà nhà nhiều tầng.

Thời kì này các thành phố được kế hoạch hoá hoàn hảo là minh chứng cho mức độ phát triển kinh ngạc của khoa học lúc bấy giờ. Con người của nền văn hóa sông Ấn đạt đến một mức độ chính xác về chiều dài, khối lượng và thời gian. Gạch được dùng làm vật liệu xây dựng lần đầu tiên trong lịch sử của loài người là loại gạch được nung với tỷ lệ và kích thước hoàn hảo, vẫn còn được thông dụng tới ngày nay. Trong luyện kim, nhiều kỹ thuật mới được phát triển. Loại cây trồng chủ yếu thời đại này đó là lúa mì. Hệ thống tưới tiêu cũng rất phát triển. 

 

2. Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng

 Ấn Độ là cái nôi của những tôn giáo như: Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Jaina giáo..Trong đó hai tôn giáo lớn và có ảnh hưởng ở Ấn Độ là Phật Giáo và Ấn Độ giáo.

Đạo Bà La Môn hay còn gọi là Ấn Độ Giáo ra đời vào thế kỉ XV trước công nguyên trong hoàn cảnh có sự bất bình đẳng về đẳng cấp và Đạo Phật ra đời như là sự chứng minh cho sự hợp lý của tình trạng bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thế kỷ 1 trước công nguyên do thái tử Xidacta Gotama (Thích ca mâu ni) khởi xướng. Theo Phật lịch năm 544 trước công nguyên chính là năm thứ nhất Phật lịch vì họ cho rằng đây là năm Đức Phật thích ca nhập niết bàn. Giáo lý của đạo Phật là sự giác ngộ về thế giới, vô ngã, duyên khởi, Luật nhân quả. Đạo Phật cũng chính là một hệ thống của triết học bao gồm các giáo lý, tư tưởng, tư duy về nhân sinh, vũ trụ, thế giới quan, giải thích các hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội dựa trên những lời dạy của Đức Phật. Theo giáo lý nhà Phật, Phật là một con người được giác ngộ và đã đạt được sự nhận thức đúng đắn về bản ngã và về thế giới xung quanh nên được giải thoát, do vậy ai cũng có thể trở thành Phật nếu người đó biết sử dụng trí tuệ của mình nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh thì sẽ được giải thoát. Phật Giáo không theo chủ nghĩa duy vật, cũng không theo chủ nghĩa duy tâm và khuôn mẫu của các quan điểm khác.

Đạo Jaina ra đời vào thế kỉ VI trước công nguyên. Đạo này hướng con người tới chủ trương bất sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.

Đạo Sikh xuất hiện lần đầu tiên tại Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết hợp của giáo lý Ấn Độ giáo và giáo lý Hồi giáo. Đạo Sikh không quá tập trung về vấn đề lễ nghi, hành hương mà hướng con người tới những điều bình thường, đơn giản nhất, tin tưởng vào sự bình đẳng. Người đạo Sikh tập trung rất đông ở Punjab và thánh địa của người đạo Sikh chính là ngôi đền Vàng ở Punjab. Đây là đạo ra đời muộn nhất tại Ấn Độ.

 

3. Chữ viết và văn học

Chữ viết: Các cư dân cổ đại ở Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết từ rất sớm, phổ biến nhất là chữ Phạn.

Thời đại Harappa -Mohenjo Đaro ở miền Bắc Ấn Độ xuất hiện chữ cổ. Hiện nay người ta lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những ký hiệu đồ hoạ.

Tới thế kỷ VII trước công nguyên đã xuất hiện chữ Brami, đến nay còn khoảng 30 bảng đá khắc loại chữ cổ này. Thế kỷ thứ V trước công nguyên, một loại chữ mang tên Sanskrit đó chính là cơ sở của các loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.

 Lĩnh vực văn học: Ấn độ có nền văn học phong phú với rất nhiều thể loại, đặc biệt nhất là sử thi với hai bộ sử thi nổi tiếng là Mahabharata và Ramayana có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của văn học Ấn Độ và Đông Nam Á ở giai đoạn sau.

Mahabharata là tác phẩm có 220.000 câu thơ nói về cuộc chiến giữa con cháu Bharata, đây được coi là "bộ bách khoa toàn thư" phản ánh đời sống xã hội Ấn Độ thời cổ đại.

Ramayana là bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, miêu tả cuộc tình của hoàng tử Rama và công chúa Xita.

Bên cạnh đó thời cổ đại ở Ấn Độ có tập ngụ ngôn năm phương pháp chứa rất nhiều tư tưởng được lặp lại trong các tác phẩm ngụ ngôn của một số dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Ấn - Âu.

 

4. Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên

+ Lịch pháp

Về thiên văn, cư dân Ấn Độ đã biết làm ra lịch: cuốn lịch chia một năm có 12 tháng, mỗi tháng có ba mươi ngày cứ sau năm năm lại có thêm một tháng nhuận.

+ Toán học

Sáng tạo ra các con số đang được sử dụng ở ngày nay gọi là số Ả rập. Trong đó đóng góp đặc biệt nhất  là sáng tạo ra số 0, chính nhờ sự sáng tạo này đã giúp toán học trở lên đơn giản, ngắn gọn hơn. Ngoài ra họ đã biết tính căn bậc hai và căn bậc ba, có sự hiểu biết nhất định về cấp số, biết đến quan hệ giữa ba cạnh trong một tam giác.

+ Vật Lý

Người Ấn Độ cổ đại đã đưa ra thuyết nguyên tử. Tại thế kỷ V trước công nguyên, nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết rằng "...Trái Đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó".

+ Y học

Người Ấn Độ cổ đại đã biết mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Biết sử dụng thuốc tê, thuốc gây mê trong phẫu thuật, biết sử dụng thảo mộc để chữa bệnh. Cư dân cổ đại Ấn Độ đã để lại hai quyển sách là "Y học toát yếu" và "Luận khảo về trị liệu".

 

5. Lĩnh vực kiến trúc nghệ thuật

Ấn Độ là nơi nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ có ảnh hưởng lớn tới nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Các tác phẩm nghệ thuật đa số đều phục vụ cho một tôn giáo nhất định, thể hiện những nét đặc trưng của tôn giáo đó. Ba dòng nghệ thuật chính và phổ biến đó là Ấn Độ Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo.

Xây dựng nhiều công trình kiến trúc đồ sộ độc đáo như: chùa hang A-gian-ta. Đây là dãy chùa được tạc vào vách núi với 29 gian chùa có hình vuông, trên vách hang có những bức tượng Phật và bích hoạ đẹp, ngoài ra còn có cột A-so-ca và đại bảo tháp Sanchi.

Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng ở nhiều nơi trên đất Ấn Độ vào thế kỷ VII đến thế kỷ XI. Một số công trình tiêu biểu như cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn gồm 85 ngôi đền xen giữa những hồ nước và cánh đồng.

Trên đây là một số thành tựu tiêu biểu của Ấn Độ thời cổ đại Luật Minh Khuê xin gửi tới bạn đọc. Hy vọng đó là những tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn. Chúc các bạn học tốt.