Mục lục bài viết
Luật sư tư vấn:
1. Dịch vụ thanh toán là gì?
Dịch vụ thanh toán gồm dịch vụ thanh toán tiền mặt và không bằng tiền mặt. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (dịch vụ thanh toán) bao gồm các dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán và một số dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng.
2. Pháp luật về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
2.1 Dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán của khách hàng là gì?
Thứ nhất, cung ứng phương tiện thanh toán;
Thứ hai, thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng, chuyển tiền, thu hộ, chi hộ;
Dịch vụ thanh toán lệnh chi, ủy nhiệm chi (được gọi chung là thanh toán ủy nhiệm chi) là việc ngân hàng thực hiện yêu cầu của bên trả tiền trích một số tiền nhất định trên tài khoản thanh toán của bên trả tiền để trả hoặc chuyển tiền cho bên thụ hưởng. Bên thụ hưởng có thể là bên trả tiền.
Dịch vụ thanh toán nhờ thu, ủy nhiệm thu (được gọi chung là thanh toán ủy nhiệm thu) là việc ngân hàng thực hiện theo đề nghị của bên thụ hưỗng thu hộ một sô' tiền nhất định trên tài khoản thanh toán của bên trả tiền để chuyển cho bên thụ hưỗng trên cơ sỏ thỏa thuận bằng văn bản về việc ủy nhiệm thu giữa bên trả tiền và bên thụ hưởng.
Thứ ba, các dịch vụ thanh toán khác.
2.2 Dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng?
Thứ nhất, dịch vụ thu hộ là việc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện ủy nhiệm của bên thụ hưởng thu tiền của bên trả tiền trên cơ sở thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và bên thụ hưởng;
Thứ hai, dịch vụ chi hộ là việc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện ủy nhiệm của bên trả tiền thay mặt mình để chi trả cho bên thụ hưỏng trên cơ sỗ thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và bên trả tiền;
Thứ ba, dịch vụ chuyển tiền là việc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện theo yêu cầu của bên trả tiền nhằm chuyển một số tiền nhất định cho bên thụ hưỏng. Bên thụ hưởng có thể là bên trả tiền. Dịch vụ chuyển tiền bao gồm dịch vụ chuyển tiền qua tài khoản thanh toán và không qua tài khoản thanh toán của khách hàng.
Việc các doanh nghiệp, cá nhân thực hiện dịch vụ giao hàng đồng thời thu hộ tiền bán hàng cho người bán (gọi tắt là COD), có phần giống với dịch vụ thu hộ của ngân hàng, tuy nhiên đây chỉ là dịch vụ thông thường, mà không phải là hoạt động thanh toán.
Thứ tư, dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng tại doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích (Thông tư số 38/2019/TT-NHNN)
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (gồm: Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và một số tổ chức khác) và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có quyền và nghĩa vụ như sau:
Thứ nhất, ấn định và phải niêm yết công khai các mức phí cung ứng dịch vụ thanh toán;
Thứ hai, có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu gây thiệt hại do vi phạm thỏa thuận giữa các bên liên quan và theo quy định của pháp luật;
Thứ ba, phải áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn trong thanh toán theo quy định của pháp luật;
Thứ tư, có trách nhiệm giữ bí mật các thông tin liên quan đến chủ tài khoản, giao dịch và số dư trên tài khoản thanh toán của người sử dụng dịch vụ của mình; có quyền từ chối yêu cầu về việc cung cấp thông tin về chủ tài khoản, giao dịch và số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng, trừ trường hợp theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyển theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của chủ tài khoản;
Người sử dụng dịch vụ thanh toán có các trách nhiệm sau đây (Nghị định 101/2012/NĐ-CP)
Thứ nhất, bồi thường thiệt hại nếu gây thiệt hại do vi phạm thỏa thuận giữa các bên liên quan và theo quy định của pháp luật;
Thứ hai, tuân thủ các biện pháp bảo đảm an toàn trong thanh toán theo quy định và hướng dẫn của các tổ chức cung ứng dịch vụ.
Các hành vi bị cấm trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt bao gồm:
Thứ nhất, làm giả, sửa chữa, tẩy xóa, thay thế phương tiện thanh toán, chứng từ thanh toán; lưu giữ, lưu hành, chuyển nhượng, sử dụng phương tiện thanh toán giả;
Thứ hai, xâm nhập hoặc tìm cách xâm nhập, phá hoại, làm thay đổi trái phép chương trình phần mềm, cơ sở dữ hệu điện tử sử dụng trong thanh toán; lợi dụng lỗi hệ thống mạng máy tính để trục lợi;
Thứ ba, cung cấp thông tin không trung thực trong quá trình cung ứng và sử dụng dịch vụ thanh toán, trung gian thanh toán;
Thứ tư, tiết lộ, cung cấp thông tin có liên quan đến tiền gửi của chủ tài khoản không đúng quy định của pháp luật;
Thứ năm, mở hoặc duy trì tài khoản thanh toán nặc danh, mạo danh;
Thứ sáu, phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp.
3. Pháp luật về thanh toán bằng tiền mặt
Thanh toán bằng tiền mặt (gồm tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành) là việc tổ chức, cá nhân sử dụng tiền mặt để trực tiếp chi trả hoặc thực hiện các nghĩa vụ trả tiền khác trong các giao dịch thanh toán. (Nghị định 222/2013/NĐ-CP)
Từ năm 1952 pháp luật đã yêu cầu khá chặt chẽ về thanh toán bằng tiền mặt như chỉ được dùng tiền mặt để trả lương và phụ cấp; trả tiền mua sản phẩm của nông dân, thợ thủ công, người buôn nhỏ; chi tiêu lặt vặt.
Năm 1955, pháp luật đã quy định: “tất cả những việc giao dịch giữa các cơ quan đoàn thể, đơn vị bộ đội và xí nghiệp quốc doanh đều phải thanh toán bằng chuyển khoản hay bằng chuyển tiền qua ngân hàng”.
Năm 1960 pháp luật đã đặt ra những nguyên tắc về quản lý tiền mặt, góp phần vào việc tiết kiệm, chông lãng phí tham ô, thúc đẩy các đơn vị kinh doanh nâng cao trình độ hạch toán kinh tế. Theo đó, tất cả các cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội, xí nghiệp quốc doanh, tổ chức kinh tế tư bản Nhà nưởc, hợp tác xã mua bán, đoàn thể từ cấp huyện trở lên, ..., đều phải mở tài khoản tại ngân hàng và phải thanh toán bằng chuyển khoản, trừ những món chi trả nhỏ.
Năm 1967, pháp luật đã quy định tất cả các cơ quan nhà nước; các đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã đều phải mỏ tài khoản tại ngân hàng. Mọi sự giao dịch giữa các tổ chức có tài khoản đều phải thanh toán bằng chuyển khoản, trừ những món chi dưdi 50đ, lOOđ hoặc 150đ được trả bằng tiền mặt do Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể theo từng loại chi tiêu. Giao dịch với những cá nhân hoặc tổ chức không có tài khoản ỏ ngân hàng thì có thể trả bằng tiền mặt, nhưng ngân hàng phải kiểm soát chặt chẽ1.
Năm 1981, pháp luật đã quy định “tất cả các cơ quan nhà nước, xí nghiệp quốc doanh, các tổ chức kinh tế tập thể và cá thể đã đăng ký tài khoản ở ngân hàng phải nộp hết số tiền mặt tồn quỹ vượt định mức vào ngân hàng. Các đơn vị có tài khoản ở ngân hàng không được thanh toán với nhau bằng tiền mặt trên mức quy định và không được mang tiền mặt trên mức quy định từ địa phương này sang địa phương khác để mua vật tư, hang hóa, mà phải chuyển tiền qua ngân hàng”.
Năm 2013 pháp luật quy định không được thanh toán và giao dịch bằng tiền mặt trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, các tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước (là đơn vị dự toán, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nưóc, cơ quan, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước), trừ một số trường hợp được phép thanh toán bằng tiền mặt theo quy định của Bộ Tài chính;
Thứ hai, tổ chức sử dụng vốn nhà nước (là tổ chức có sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước), trừ một số trường hợp được phép thanh toán bằng tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
Thứ ba, cá nhân và pháp nhân giao dịch chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán; các giao dịch chứng khoán đã đăng ký, lưu ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán không qua hệ thống giao dịch của sở giao dịch chứng khoán;
Thứ tư, doanh nghiệp giao dịch góp vốn và mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp vào doanh nghiệp;
Thứ năm, các doanh nghiệp giao dịch vay và cho vay lẫn nhau;
Thứ sáu, tổ chức tín dụng thực hiện giải ngân vốn cho vay đối với khách hàng bằng tiền mặt trong các trường hợp sau đây. (Thông tư số 21/2017/TT-NHNN)
- Khách hàng thanh toán, chi trả cho các mục đích sử dụng vốn vay mà pháp luật quy định phải thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng;
- Khách hàng là bên thụ hưởng có tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, đã ứng vốn tự có để thanh toán, chi trả các chi phí thuộc chính phương án, dự án kinh doanh hoặc phương án, dự án phục vụ đời sông được tổ chức tín dụng cho vay quyết định cho vay theo quy định của pháp luật (cho vay bù đắp). Trường hợp khách hàng không có tài khoản thanh toán (không bao gồm pháp nhân) thì được giải ngân bằng tiền mặt.
- Khách hàng trực tiếp thanh toán, chi trả tiền mua sản phẩm nông nghiệp thuộc lĩnh vực nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản từ cá nhân, hộ gia đỉnh, chủ trang trại, hộ kinh doanh và tổ hợp tác có hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn để khách hàng thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, phù hợp với mục đích vay vốn ghi trong thỏa thuận cho vay.
Luật Thuế quy định một trong các điều kiện để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào là “có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng”.
Cho đến đầu năm 2020, việc thanh toán tiền mặt giữa các cá nhân với nhau vẫn hợp pháp dù với số tiền đến hàng trăm tỷ đồng.
Tổ chức tín dụng được thỏa thuận với khách hàng về kế hoạch rút tiền mặt và việc khách hàng thông báo trước khi rút tiền mặt với số lượng lớn. (khoản 1 Điều 8 Nghị định 222/2013/NĐ-CP)
Khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng trong việc nộp, rút tiền mặt hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến tiền mặt phải trả phí dịch vụ tiền mặt theo ấn định của Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng ấn định.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác!