Nội dung Tội cướp giật tài sản Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

1.Cơ sở pháp lý

Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 Điều 172 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017

2.Trạng thái của bị hại 

Không kịp trở tay.
Người bị hại biết nhưng không dám hoặc không có đủ khả năng tự vệ để ngăn chặn hành vi chiếm đoạt tài sản.

3.Mặt khách quan

Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. Khác với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt không còn là mục đích mà phải là hành vi được thực hiện trên thực tế.  Hành vi chiếm đoạt tài sản ở tội cướp giật tài sản có hai dấu hiệu để phân biệt với hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác. Đó là dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng. Dấu hiệu công khai ở đây vừa chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là có tính chất công khai nếu hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết ngay khi hành vi này xảy ra. Ỷ thức công khai của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt có nghĩa: Người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt của mình có tính chất công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó. Diu hiệu “nhanh chóng” ở đây phản ánh thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm đoạt của người phạm tội. Đó là thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở này có thể là có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra) nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn tránh. Thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dưới những hình thức khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm của tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức giữ tài sản cũng như những hoàn cảnh bên ngoài khác. Thủ đoạn nhanh chóng lẩn tránh thường có thể là nhanh chóng tẩu thoát. Theo đó “nhanh chóng tẩu thoát” không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội cướp giật tài sản.
Với thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn tránh như vậy, người phạm tội mong muốn chủ tài sản không có điều kiện để phản ứng kịp thời, ngăn cản việc chiếm đoạt và do vậy hoàn toàn không có ý định dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó trực tiếp với chủ tài sản.
Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công khai chiếm đoạt tài sản của họ. Theo đó, dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi chiếm đoạt tài sản như ở tội cướp giật tài sản. Dấu hiệu phân biệt hành vi chiếm đoạt ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội cưóp giật tài sản cũng như với một số tội phạm khác là các đặc điểm sau của hành vi chiếm đoạt:
- Hành vi chiếm đoạt tài sản có tính công khai như ở hành vi cướp giật; (nhưng)
- Hành vi này xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản. Do vậy, người phạm tội không cần và không có ý định sử dụng thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản. Người phạm tội không dùng vũ lực, không đe dọa dùng vũ lực, không uy hiếp tinh thần cũng như không nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng lẩn tránh.
- Dấu hiệu phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ là vỉ phạm
Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản khi thoả mãn một trong các dấu hiệu sau:
- Tài sản chiếm đoạt trị giá từ 02 triệu đồng trở lên;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, có thể là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi trộm cắp tài sản hoặc hành vi chiếm đoạt khác (về dấu hiệu này, xem thêm bình luận Điểu 134 BLHS);
- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản (được quy định tại một trong các điều 168, 169, 170, 173, 174, 175) hoặc về tội được quy định tại Điều 290 (các hành vi chiếm đoạt có sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử) và chưa được xoá án tích (về dấu hiệu này, xem thêm bình luận Điều 134 BLHS);
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội (gây ra tâm lý lo lắng trong dân cư về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ (như xe máy dùng để chở khách và tiền thu được từ việc chở khách là khoản thu chính của gia đình).
 

4.Mặt chủ quan

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
 

5.Mặt khách thể

Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

6.Mặt chủ thể

Chủ thể của tội cướp giật tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 14 tuổi trở lên nếu hành vi phạm tội thuộc các khoản 2, 3 và 4 của điều luật hoặc là người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu hành vi phạm tội thuộc khoản 1 của điều luật Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS

7.Tình tiết tăng nặng

Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:Có tổ chức: Đây là trường họp cướp giật tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm mà trong đó có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm. Có tỉnh chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội cướp giật tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu nhập chính. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là trường hợp tài sản đã bị chiếm đoạt trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).Dùng thủ đoạn nguy hiểm: Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi nhanh chóng chiếm đoạt bằng những hình thức dễ dàng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của chủ tài sản. Vỉ dụ: Giật tài sản của người đang đi xe máy...Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường họp người phạm tội đã có hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Việc chống trả này không đòi hỏi phải gây thương tích. Mục đích của việc chống trả là nhằm để tẩu thoát. Nếu nhằm để giữ bằng được tài sản vừa cướp giật thì là trường hợp chuyển hoá từ cướp giật sang cưóp tài sản. Gây thương tích hoặc gây tắn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%: Đây là trường họp người phạm tội cướp giật tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người bị tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên nhưng dưới mức 31% (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ: Đây là trường họp nạn nhân của hành vi cướp giật tài sản là đối tượng đặc biệt và tính chất đặc biệt này làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ở đây, điều luật chỉ quy định rõ lỗi cố ý (“biết”) đối với đối tượng phụ nữ có thai.Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Đây là trường hợp phạm tội cướp giật tài sản đã góp phần gây ra tâm lý lo lắng trong dân cư về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS. 
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là trường họp tài sản đã bị chiếm đoạt trị giá từ 200 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%): Đây là trường hợp người phạm tội cướp giật tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người bị tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên nhưng dưới mức 61% (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Đây là trượng hợp phạm tội cướp giật tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng thiên tai hoặc tình trạng dịch bệnh khi thực hiện hành vi phạm tội. 
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường hợp tài sản bị cướp giật trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%) trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên: Đây là trường họp người phạm tội cướp giật tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61 % trở lên hoặc của nhiều người với tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi người từ 31% trở lên.Làm chết người: Đây là trường họp người phạm tội cưóp giật tài sản đã gây hậu quả nạn nhân bị chết và lỗi của họ đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Neu người phạm tội cố ý gây hậu quả chết người thì hành vi phạm tội không còn thuộc trường hợp này mà cấu thành hai tội (tội giết người và tội cướp giật tài sản).Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Đây là trường hợp phạm tội cướp giật tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp khi thực hiện hành vi phạm tội . 
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là trường hợp tài sản chiếm đoạt trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường họp người phạm tội đã có hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Việc chống trả này không đòi hỏi phải gây thương tích. Mục đích của việc chống trả là nhằm để tẩu thoát. Nếu nhằm để giữ bằng được tài sản vừa công nhiên chiếm đoạt thì là trường họp chuyển hoá từ công nhiên chiếm đoạt tài sản sang cướp tài sản. Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội công nhiênchiếm đoạt tài sản thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS. Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ: Đây là trường hợp phạm tội mà đối tượng bị chiếm đoạt là loại tài sản có ý nghĩa đặc biệt về mặt an sinh xã hội. Đó là hàng cứu trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc của tổ chức quốc tế hoặc của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Đây là tài sản không chỉ có giá trị, giá trị sử dụng như tài sản bình thường mà còn có giá trị tinh thần. Đặc điểm đặc biệt này của tài sản bị chiếm đoạt làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi công nhiên chiếm đoạt.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là trường họp tài sản chiếm đoạt trị giá từ 200 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Đây là trường họp phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng thiên tai hoặc tình trạng dịch bệnh khi thực hiện hành vi phạm tội. 
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường họp tài sản bị công nhiên chiếm đoạt trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tĩnh trạng khẩn cấp: Đây là trường hợp phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê