Mục lục bài viết
Một trong những điểm quan trọng của Bộ luật Tố tụng Dân sự là quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập được và có yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập. Quy định này một mặt gắn trách nhiệm cho đương sự, giảm áp lực công việc cho Tòa án, mặt khác, cũng là cơ chế bảo đảm tính khách quan, tránh tình trạng Tòa án lạm dụng trong việc thu thập chứng cứ có lợi để thiên vị cho một trong các bên. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành những quy định này đã gặp không ít khó khăn cho cả đương sự lẫn Tòa án. Trong số các nguồn chứa đựng chứng cứ thì các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Nhưng trong nhiều trường hợp, đương sự lại không có các chứng cứ đó, mà do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ, quản lý.
1. Chứng cứ là gì?
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. - Theo Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Nguồn của chứng cư bao gồm:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
- Vật chứng.
- Lời khai của đương sự.
- Lời khai của người làm chứng.
- Kết luận giám định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
- Văn bản công chứng, chứng thực.
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
2. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của đương sự
Trong vụ án, vụ việc dân sự, các bên tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính bản thân mình. Vì vậy, các bên đương sự cần chủ động thu thập, cung cấp bằng chứng, chứng cứ chứng minh quyền lợi của mình bị xâm phạm. Đây cũng là tinh thần của Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
Điều 6. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Ngoài việc tự mình thu thấp, cung cấp các tài liệu chứng cứ, đương sự còn có thêm các quyền sau đây:
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình.
- Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản.
- Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
- Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ.
3. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các bên có thẩm quyền
Để bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ, Điều 7 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát."
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 97 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định, chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì mới có quyền yêu cầu Tòa án thu thập. Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; tài liệu, chứng cứ cần thu thập; lý do mình không tự thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần thu thập.
>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến (24/7) gọi số: 1900.6162
Thực tế, khi giải quyết các vụ án mà có các tài liệu, chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý thì việc thu thập chứng cứ không hề đơn giản. Trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã cất công đi lại nhiều lần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án để họ giao nộp cho Tòa án nhưng đều bị từ chối với đủ mọi lý do. Việc từ chối thường chỉ bằng lời nói, thái độ, cử chỉ. Với cách từ chối này, đương sự khó có thể chứng minh việc họ đã áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không thu thập được chứng cứ để làm cơ sở yêu cầu Tòa án thu thập. Vụ án sau là một trong số nhiều trường hợp như vậy.
Thấy rằng không thể duy trì quan hệ hôn nhân với người chồng bê tha, thiếu trách nhiệm, chị L làm đơn khởi kiện yêu cầu TAND huyện Q giải quyết việc ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng. Theo trình bày của chị L và anh H (chồng chị L) thì vào năm 2004 vợ chồng anh chị được công ty thanh lý căn nhà tập thể gắn liền với 264 m2 đất tại thành phố Đ, nhưng diện tích đất này đến nay vẫn chưa được cấp sổ đỏ. Thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục địa chính, Tòa án đã yêu cầu chị L cung cấp văn bản của UBND thành phố Đ xác nhận việc sử dụng đất đó có hợp pháp hay không, để có cơ sở giải quyết yêu cầu của đương sự. Theo yêu cầu của Tòa án, chị L đã nhiều lần đến “xin” văn bản xác nhận của UBND thành phố Đ nhưng đều bị từ chối bằng lời nói, không có văn bản trả lời lý do không cung cấp. Vì vậy, chị L đành phải rút lại yêu cầu phân chia tài sản.
Không chỉ đương sự bị gây khó khăn mà ngay cả Tòa án đôi khi cũng phải nản lòng vì thái độ làm việc và ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức liên quan. Đơn cử trường hợp TAND huyện Q giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H với chị L. Theo bà H thì vợ chồng bà không ký vào hợp đồng chuyển nhượng đất mà do người cháu của bà giả mạo chữ ký. Do không thể cung cấp được hồ sơ chuyển nhượng đất nên bà H đã có đơn yêu cầu Tòa án thu thập hồ sơ đang lưu giữ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Q để trưng cầu giám định chữ ký. Trên cơ sở đơn yêu cầu của đương sự, Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Q. Sau một thời gian không thấy hồi âm, Tòa án đã nhiều lần cử cán bộ đến trực tiếp hỏi thì đều nhận được câu trả lời “hồ sơ đã bị thất lạc”. Thế nhưng, sau khi Tòa án gửi công văn thông báo sẽ kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm về việc để mất hồ sơ địa chính thì ngay sau đó liền nhận được “lời mời” đến nhận hồ sơ (?).
Do những khó khăn nêu trên, nhiều nơi khi các cơ quan, tổ chức từ chối cung cấp tài liệu chứng cứ cho đương sự, nhưng không có văn bản nêu rõ lý do, chính vì vậy, quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã giải quyết triệt để được những vấn đề trên, cụ thể, tại Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng:
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người có yêu cầu.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.
Nội dung bài viết được đội ngũ chuyên viên, luật sư của công ty luật Minh Khuê sưu tầm, biên tập trích dẫn nguồn BÁO NGƯỜI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ - PHẠM THÁI QUÍ (http://nguoidaibieu.com.vn)
4. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ cung cấp bằng chứng, chứng cứ
Các bên đương sự, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ thể khác có liên quan đến tranh chấp dân sự có quyền và nghĩa vụ thu thập, giao nộp các bằng chứng, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích các bên có liên quan. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, quyền này bắt đầu kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự. Điều này được quy định trong khoản 2 Điều 24 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:
Điều 24. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử
1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này.
5. Xác định chứng cứ
Chứng cứ được xác định theo hướng dẫn tại Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như sau:
- Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
- Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
- Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
- Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
- Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
- Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
- Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
- Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
>> Tham khảo: Quy định về thẩm quyền của Tòa án và Viện kiểm sát trong hoạt động thu thập chứng cứ vụ án dân sự