Khách hàng: Chào Luật sư Minh Khuê, Theo Taylor - cha để của quản lý khoa học thì có những tư tưởng cơ bản nào thể hiện việc quản lý một cách khoa học nào?

Cảm ơn!

Trả lời:

 

1. Quản lý theo khoa học của Taylor

Quản lý theo khoa học của Taylor (còn được gọi là Chủ nghĩa Taylor– Taylorism, Luật phối hợp cổ điển - Classical Perspective) là lý thuyết quản lý dựa trên quá trình phân tích, tổng hợp các quy trình công việc nhằm nâng cao năng suất lao động (hợp lý hóa lao động). Những ý tưởng cốt lõi của lý thuyết được phát triển trong thập niên 1890 bởi Frederick Winslow Taylor, ông tin rằng các quyết định dựa trên kinh nghiệm truyền thống và quy tắc theo kinh nghiệm (rule of thumb) nên được thay thế bằng cách khai thác chuỗi thao tác chính xác sau khi nghiên cứu cẩn thận các cá nhân trong quá trình làm việc. Lý thuyết của Taylor đạt đến đỉnh cao của nó trong những năm 1910; đến thập niên 1920, cho dù vẫn có ảnh hưởng rộng khắp, nhưng đã bắt đầu có những thuyết mới và các ý kiến đối lập. Mặc dầu lý thuyết Quản lý theo khoa học trở nên lỗi thời dần từ sau những năm 1930, những nội dung cơ bản nhất của lý thuyết, bao gồm ý tưởng về phân tích, tổng hợp, lập luận, cũng như về tinh thần lao động của nhân công, vẫn có vai trò quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp cũng như phương pháp quản lý ngày nay.

Taylor được coi như là cha đẻ của lý thuyết "Quản lý theo khoa học". Thế nhưng, dù thuật ngữ "Quản lý theo khoa học" và "Chủ nghĩa Taylor" có nghĩa gần tương đương nhau, các nghiên cứu coi "Chủ nghĩa Taylor" chỉ là "nền tảng" của lý thuyết, và trong nhiều trường hợp, Luật phối hợp cổ điển (ám chỉ lý thuyết có tầm quan trọng đến các thuyết hiện đại, cho dù nó không còn quá "tối tân nữa"). Ban đầu, Taylor gọi cách tiếp cận của mình là "shop management" và "process management". Năm 1910, khi Louis Brandeis phổ biến tên gọi "Quản lý theo khoa học", Taylor nhận ra nó phù hợp hơn cho ý tưởng của mình, và ông bắt dùng nó trong chuyên khảo năm 1911 của mình.

Năm 1918, một tổ chức nghiên cứu gọi là "Masaryk Academy of Work" (Tomáš Garrigue Masaryk Academy of Labour) được thành lập tại Praha để nghiên cứu vấn đề này.

Về nội dung của quản lý khoa học. Theo từ điển bách khoa toàn thư mở, khái niệm cơ bản của lý thuyết được xây dựng bởi Taylor trong những thập niên 1880 và 1890, xuất bản lần đầu trong công trình Shop Management vào năm 1903 và The Principles of Scientific Management (1911). Khi đang làm đốc công và thợ máy tiện ở Midvale Steel, Taylor nhận ra sự khác biệt bẩm sinh, hình thành bởi nhiều yếu tố như tài năng, trí thông minh, hay động lực, của các nhân công khác nhau thì khác nhau. Ông là một trong những người tiên phong áp dụng khoa học vào tình huống này, thật vậy, hiểu lý do và phương thức để có dung hòa những khác biệt giữa khả năng của nhân công, qua đó sắp xếp họ vào vị trí phù hợp, rồi nhân rộng sang những nhân công khác, bằng cách tạo ra các tiêu chuẩn. Ông cho rằng, kinh nghiệm truyền thống và quy tắc theo kinh nghiệm nên được thay thế bằng cách khai thác chuỗi thao tác chính xác, với mục đích tăng năng suất lao động và giảm bớt những cố gắng của nhân công.

Lý thuyết Quản lý theo khoa học dựa trên sự điều hành chặt chẽ đối với nhân công của người quản lý. Chính vì thế, phương pháp này yêu cầu nhiều quản lý viên hơn so với các phương pháp cũ. Sự khác biệt này phân biệt nhóm những người quản lý dựa trên sự chi tiết trong công việc, khả năng xoay xở, và những người quản lý chỉ đơn thuần misguided micromanagement, và hơn thế nữa, gây ra sự xích mích giữa lao công và quản lý, cũng như sự căng thẳng giữa các giai cấp xã hội, giữa giới lao động chân tay và giới lao động trí óc.

a. Về nguyên lý quản lý một cách khoa học

Taylor quy nạp cơ chế quản lý một cách khoa học trong những nguyên lý sau đây:

Một là, nghiên cứu một cách khoa học mỗi động tác của công nhân đổ thay thê cho cách làm cũ là chỉ đơn thuần dựa vào kinh nghiệm.

Hai là, tuyển chọn công nhân một cách khoa học, đào tạo và giáo dục họ, giúp họ trưởng thành. Còn cách làm cũ là để công nhân chọn việc làm theo ý họ và căn cứ vào khả năng của từng người để tự đào tạo.

Ba là, hiệp tác thân ái với công nhân để bảo đảm cho tất cả công việc đều thực hiện theo những nguyên tắc khoa học đã được xây dựng.

Bốn là, chủ và thợ phải cùng nhau chia sẻ công việc và chức trách. Phía chủ phải gánh vác phần việc quan trọng hơn của mình, không đẩy hết mọi việc và phần lớn chức trách về phía công nhân như trước kia.

Do tính tích cực của công nhân được phát huy bằng cách đó và phía chủ áp dụng phương pháp làm việc kiểu mới nên hiệu quả quản lý tốt hơn nhiều so với cơ chế cũ.

Taylor đã thông qua một loạt ví dụ thực tế để chứng minh sức mạnh to lớn và hiệu quả của cơ chế quản lý này, một cơ chế quản lý thích hợp với tất cả các loại công việc, từ công việc cơ bản nhất đến công việc phức tạp nhất. Hơn nữa, khi được áp dụng, thành quả thu được tất nhiên sẽ lớn hơn rất nhiều so với cơ chế quản lý “tính tích cực cộng với sự khích lệ”.

b. Chế độ và phương pháp về quản lý

Căn cứ vào 4 nguyên lý về việc quản lý một cách khoa học nói trên tại mục.

Taylor đã quy định một loạt chế độ và phương pháp cụ thể về quản lý. Những chế độ và phương pháp này khi quy nạp lại, chủ yếu bao gồm hai mặt, đó là:

- Quản lý tác nghiệp; và

- Tổ chức quản lý.

Tư tưởng quản lý thể hiện trong toàn bộ nội dung quản lý chủ yếu gồm những tư tưởng sau:

 

2. Tư tưởng phân công theo chuyên ngành của Talor

Tư tưởng phân công theo chuyên ngành của Taylor thể hiện trên các mặt sau đây:

- Mặt thứ nhất, là sự phân công lao động của công nhân, tức là căn cứ vào điều kiện phân công lao động một cách hợp lý nhằm phát huy sở trường của họ, khiến họ có thể phát huy đầy đủ khả năng ở mức tốt nhất nhàm đạt được yêu cầu nâng cao năng suất lao động trên tổng thể.

- Mặt thứ hai, sự phân công theo chức năng quản lý, trước hết là sự phân công giữa chức năng quản lý và chức năng tác nghiệp (chức năng kế hoạch và chức năng thừa hành), tức là tách chức năng quản lý ra khỏi hoạt động sản xuất, độc lập với hoạt động sản xuất, giao cho những người đã được đào tạo về chuyên môn đảm nhận chức năng quản lý này, đồng thời tiến hành sự phân công về mặt chức trách đối với nhân viên quản lý, để mỗi nhân viên quản lý chỉ thực hiện một chức năng hoặc mấy chức năng nào đó về mặt quản lý. Đồng thời làm cho người quản lý kinh doanh cao nhất chỉ đảm nhiệm việc xử lý những công việc ngoại lệ của xí nghiệp nhằm nâng cao hiệu suất quản lý.

 

3. Tư tưởng tối ưu hóa của Talor

Tối ưu hóa nói đây là tối ưu hóa quá trình sản xuất của xí nghiệp, tức là trong điều kiện sản xuất đã được tiêu chuẩn hóa, tìm ra một phương pháp làm việc tối ưu để đạt được hiệu quả sản xuất tối ưu.

Taylor vạch rõ, mục đích của việc nghiên cứu thời gian sản xuất là để xác định định mức thời gian sản xuất tối ưu, còn việc nghiên cứu động tác là nhằm tìm ra phương pháp thao tác tối ưu để đạt được định mức thời gian tối ưu và thông qua việc nghiên cứu hai vấn đề này để đạt được hiệu quả sản xuất tối ưu.

 

4. Tư tưởng tiêu chuẩn hóa của Taylor

Tư tưởng tiêu chuẩn hóa thể hiện trong việc quản lý một cách khoa học chủ yếu là tiêu chuẩn hóa phương pháp thao tác, tiêu chuẩn hóa lượng tác nghiệp hoặc tốc độ tác nghiệp và tiêu chuẩn hóa điều kiện tác nghiệp, lấy phương pháp thao tác tối ưu nói trên và điều kiện tác nghiệp làm tiêu chuẩn để hình thành quy trình thao tác tiêu chuẩn, lấy tốc độ tác nghiệp tối ưu nói trên hoặc lượng tác nghiệp tối ưu nói trên làm tiêu chuẩn để hình thành định mức cơ bản hoặc định mức sản lượng.

Do đó, tư tưởng tiêu chuẩn hóa liên quan mật thiết với tư tưởng tối ưu hóa. Việc quán triệt tư tưởng tối ưu hóa giúp người ta tìm ra phương pháp khoa học để nâng cao hiệu quả sản xuất. Việc quán triệt tư tưởng tiêu chuẩn hóa làm cho phương pháp khoa học và điều kiện sản xuất hình thành yêu cầu của quản lý, do đó làm cho nó có thể thực hiện thuận lợi.

=> Tóm lại, tư tưởng chuyên môn hóa, tối ưu hóa, tiêu chuẩn hóa đều phản ánh yêu cầu khách quan, phổ biến của tất cả các nền sản xuất sử dụng máy móc đã được xã hội hóa.

 

5. Tư tưởng “con người kinh tế” của Taylor

Taylor cũng như Adam Smith đều cho rằng động cơ làm việc của con người là theo đuổi lợi ích kinh tế cá nhân.

Mong muốn của chủ xí nghiệp là có được lợi nhuận tối đa, mong muốn của công nhân là có được mức lương cao nhất. Taylor cho rằng “thiên tính của con người là muốn làm việc nhẹ nhàng, theo ý thích”, “những người bình thường (dù làm nghề gì) đều muốn làm việc từ từ, không thích vội vàng”.

Do đó, ông chủ trương thực hiện chế độ trả lương chênh lệch theo sổ lượng sản phẩm, dùng mức lương cao để kích thích công nhân nâng cao hiệu quả sản xuất. Trên thực tế, nhiều biện pháp quản lý mà ông đưa ra đều xuất phát từ giả định rằng, bản chất con người là con người kinh tế. Xét theo một ý nghĩa nào đó, một mục đích trực tiếp của việc cải cách chế độ quản lý tác nghiệp mà ông đề ra là để xóa bỏ tính lề mề của công nhân.

Do sự cố gắng chung của Taylor và những người theo ông, một cuộc cải cách về quản lý xí nghiệp đã diễn ra, khiến cho việc quản lý nhà máy cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tiến một bước dài theo hướng quản lý một cách khoa học. Taylor đã đóng góp sức mình cho lịch sử phát triển của phương thức quản lý xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, để lại dấu ấn sâu sắc cho hậu thế. Lý luận quản lý một cách khoa học do Taylor đề ra, ở một mức độ nhất định, đã phản ánh yêu cầu khách quan của quá trình phát triển công nghiệp sử dụng máy móc lớn lúc đó, mầy mò và rút ra một phương pháp khoa học để nâng cao hiệu quả sản xuất, đặt nền móng cho việc khoa học hóa công việc quản lý.

 

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!

 

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn)