1.Ưu điểm của trọng tài thương mại quốc tế

– Thủ tục tiện lợi nhanh chóng: Các bên không phải tuân thủ những nguyên tắc tố tụng nghiêm ngặt và phức tạp, mà có thể quyết định cả về nguyên tắc, trình tự thủ tục trọng tài, tố tụng trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp, quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm mà không bị kháng cáo, kháng nghị tại bất cứ trọng tài khác cũng như tại Tòa án.

– Phán quyết của trọng tài thướng chính xác, khách quan và có độ tin cậy cao hơn:Vì các bên được quyền chọn trọng tài viên cho mình, nên các trọng tài viên thường là những chuyên gia có kinh nghiệm an hiểm sau sắc về các lĩnh vực chuyên môn có liên quan đến hợp đồng; quyết định của Trọng tài dường như không bị chi phối bởi yếu tố chính trị vì thế sẽ mang tính khách quan hơn so với phán quyết của Tòa án.

– Khả năng giữ bí mật: Trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xét xử kín, các quyết định của trọng tài không được công khai nếu không được sự đồng ý của các bên.

– Chi phí trọng tài: với thủ tục tố tụng đơn giản nên chi phí trọng tài ít tốn kém hơn so với chi phí kiện tụng trước Tòa án.

2.Nhược điểm của phương thức trọng tài

 Những ưu thế của trọng tài, nếu nhìn theo một góc độ khác, thì cũng có thể bị coi là những nhược điểm ở mức độ nhất định. Ví dụ, thông thường, việc ít hoạt động điều tra có thể được coi như một lợi thế. Tuy nhiên, một số tranh chấp cụ thể đòi hỏi phải điều tra kĩ, như tranh chấp về chống độc quyền, loại tranh chấp đang được giải quyết ngày càng nhiều bằng phương thức trọng tài. Những tranh chấp loại này thường đòi hỏi bên khởi kiện phải chứng minh được vi phạm, mà vi phạm chỉ có thể được chứng minh, nếu bên đó được quyền tiếp cận mạnh mẽ những tài liệu thuộc sự kiểm soát của bên bị đơn. Do vậy, việc ít hoạt động điều tra đối với dạng tranh chấp này đồng nghĩa với ít cơ hội cho bên nguyên đơn đáp ứng yêu cầu về chứng cứ. Hơn thế nữa, việc thiếu quyền phúc thẩm có thể là lợi thế theo tiêu chí mong muốn kết thúc sớm tranh chấp, nhưng nếu trọng tài viên ra phán quyết rõ ràng là sai, so với pháp luật hoặc theo thực tế, thì việc thiếu quyền phúc thẩm sẽ là một điều thất vọng đối với một bên tranh chấp. Một nhược điểm khác là: trên thực tế, trọng tài viên không có quyền cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài. Họ không có quyền cưỡng chế ai đó phải làm một việc, cũng không có quyền trừng phạt người đó nếu người đó không làm. Ví dụ, toà án có thể áp đặt một lệnh phạt vì tội vi phạm nội quy của toà án, nếu ai đó không chấp hành lệnh của toà. Ngược lại, trọng tài viên không thể áp đặt lệnh phạt, mặc dù họ có thể đưa ra suy luận bất lợi, nếu một bên không tuân thủ lệnh của trọng tài. Hơn nữa, đối với những đối tượng không phải là một bên tranh chấp, trọng tài viên thường không có bất cứ quyền gì để cưỡng chế họ. Do vậy, nhiều khi trọng tài, hoặc các bên, phải cố gắng đạt được sự hỗ trợ từ toà án (ví dụ: trong trường hợp cố gắng đạt được việc thi hành một biện pháp khẩn cấp tạm thời), khi mà sự cưỡng chế là cần thiết để đảm bảo sự tuân thủ các mệnh lệnh của toà án. Trong các tranh chấp có nhiều bên tham gia, một tổ chức trọng tài thường không có quyền triệu tập tất cả các bên, mặc dù tất cả các bên đều liên quan đến một nội dung nào đó của cùng một vụ tranh chấp. Bởi vì quyền hạn của trọng tài chỉ xuất phát từ sự thoả thuận giữa các bên, nếu một bên không đồng ý tham gia quá trình trọng tài thì thông thường họ không bị bắt buộc phải tham gia vào quá trình này. Một tổ chức trọng tài thường không có quyền gộp những đơn kiện tương tự nhau của những bên khác nhau, mặc dù điều đó có thể là thuận tiện hơn cho tất cả các bên liên quan. Cuối cùng, có thể coi là một nhược điểm của phương thức trọng tài, đó là việc giới trọng tài viên quốc tế hiện nay không đa dạng về giới và dân tộc. Mặc dù một vài thiết chế và một số thành viên đơn lẻ trong giới trọng tài đã cố gắng mở rộng sự đa dạng này, nhưng về tổng thể thì vẫn chưa có nhiều thay đổi tích cực.

3.Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Tùy vào từng trường hợp, các bên có thể thỏa thuận trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra khi sử dụng phương thức trọng tài thương mại. Thỏa thuận của trọng tài được thể hiện dưới dạng một điều khoản của hợp đồng hay hình thức thỏa thuận riêng. Tuy nhiên bắt buộc thỏa thuận cần phải lập thành văn bản. Những hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:

Thỏa thuận được xác lập thông qua việc trao đổi giữa các bên bằng thư điện tử, telegram, fax, telex, hay những hình thức khác đúng theo quy định mà pháp luật đề ra.

Xác lập thỏa thuận qua thông tin trao đổi giữa các bên.

Thỏa thuận được công chứng viên, luật sư hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại thành văn bản đúng theo yêu cầu của các bên.

Trong giao dịch giữa các bên có dẫn chiếu tới 1 văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như là: điều lệ công ty, hợp đồng, chứng chứ và các tài liệu tương tự khác.

Thông qua việc trao đổi về đơn khởi kiện và biên bản tự bảo vệ. Trong đó thể hiện rõ ràng sự tồn tại của thỏa thuận một bên đưa ra mà bên còn lại không phủ nhận.Tuy nhiên đối với những trường hợp sau đây thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu hóa:

Thỏa thuận của trọng tài được xác lập để xử lý tranh chấp không thuộc lĩnh vực được quy định ở Điều 2 Luật trọng tài Thương mại năm 2010. Theo quy định của Pháp luật, đối tượng xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền. Người xác lập không phải là người đại diện theo pháp luật. Hoặc họ không phải là người được được ủy quyền hợp pháp hoặc người được ủy quyền hợp pháp nhưng lại vượt qua phạm vi ủy quyền.

Người xác lập thỏa thuận trọng tài hoàn toàn không có năng lực hành vi dân sự theo đúng quy định của pháp luật dân sự.

Hình thức thỏa thuận trọng tài không phù hợp với các quy định nêu trên.

Một trong các bên bị đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài đồng thời có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu hóa.

Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm do pháp luật đưa ra.

4.Có nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại không?

So với việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án truyền thống thì hình thức trọng tài có nhiều ưu điểm nổi trội hơn như:

  • Thủ tục đơn giản và linh hoạt theo thỏa thuận giữa các bên xảy ra tranh chấp. Điều này giúp việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng hơn. Các bên sẽ không mất quá nhiều thời gian và chờ đợi nhiều khâu để giải quyết một vấn đề.
  • Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thường không công khai. Điều này giúp các cá nhân và doanh nghiệp bảo mật được thông tin, đảm bảo uy tín của mình. Các thông tin đó hoàn toàn có thể gây bất lợi đến hoạt động kinh doanh của họ.

Vì 2 lý do trên nên các cá nhân, tổ chức thường lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hơn Tòa án.

Bên cạnh ưu điểm về thời gian cũng như linh hoạt trong các thức giải quyết tranh chấp, hình thức trọng tài còn tồn tại một số nhược điểm. Cụ thể như:

  • Khó khăn trong việc thu thập các bằng chứng, nhân chứng
  • Nếu như một trong các bên không có ý hợp tác thì tranh chấp sẽ được đưa lên Tòa án.
  • Phán quyết của trọng tài có thể bị Tòa án xem xét lại và hủy khi có đơn yêu cầu.

Vì vậy, tùy vào từng trường hợp khác nhau mà các bên xem xét nên sử dụng hình thức trọng tài thương mại hay đưa lên Tòa án. Đa phần những tranh chấp nhỏ và cần tính bảo mật cao thì phương thức Trọng tài vẫn được sử dụng phổ biến.

5. Khả năng công nhận và cho thi hành của phán quyết trọng tài thương mại quốc tế

Vào giai đoạn công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại quốc tế được đặt ra, nguyên tắc thoả thuận trọng tài được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn được sử dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước cũng như các quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế. Về nguyên tắc, điều khoản trọng tài độc lập với phần còn lại của hợp đồng. Điều này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Do đó, các bên có quyền thoả thuận một luật riêng để điều chỉnh điều khoản trọng tài mà không phải dựa vào luật điều chỉnh nội dung hợp đồng. Nếu muốn một luật riêng như vậy, họ cần thoả thuận rõ về việc áp dụng luật đó trong hợp đồng hoặc một văn bản riêng. Tuy nhiên trên thực tế, hiếm khi các bên thoả thuận áp dụng luật riêng cho thoả thuận trọng tài mà mặc nhiên sử dụng ngay luật điều chỉnh nội dung hợp đồng (thường được thoả thuận dưới dạng một điều khoản hợp đồng).

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận như vậy, nhiều hệ thống pháp luật thừa nhận nguyên tắc luật của quốc gia nơi phán quyết trọng tài được tuyên sẽ thay thế. Nguyên tắc này được tìm thấy gián tiếp qua các quy định về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài trong các luật trọng tài trên thế giới.

Ví dụ:

– Khoản 1 điều 54 Luật Trọng tài Thuỵ Điển 1999 quy định: “Phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành ở Thuỵ Điển nếu bên bị chống lại quyền lợi chứng minh được rằng… thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu họ không đạt được thoả thuận như vậy, theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”.

– Khoản II điều 38 Luật Trọng tài Brazil quy định: “… phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành nếu bị đơn chứng minh được rằng thoả thuận trọng tài không có hiệu lực theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu thiếu điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên”.

– Nội dung tương tự cũng được ghi nhận tại điều 103(2)(b) Luật Trọng tài Anh 1996: “Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối nếu bị đơn chứng minh được rằng, thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước các bên đã chấp thuận nó, nếu không có điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên.”

Theo điều 34(2)(a)(i) Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế 1985 của UNCITRAL: “Một quyết định chỉ có thể bị toà án theo quy định tại Điều 6 huỷ trong trường hợp… thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của quốc gia nơi quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ”. Nội dung tương tự cũng được thể hiện tại điều V Công ước NewYork 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài: “Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng: Các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết định”.

Như vậy, trong giai đoạn công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài, luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong trường hợp các bên không có thỏa thuận là luật của quốc gia nơi phán quyết trọng tài được tuyên. Mặt khác, khi thỏa thuận về việc lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, các bên thường có xu hướng lựa chọn hệ thống pháp luật “có lợi” cho mình nhất. Do đó, trong quá trình soạn thảo điều khoản lựa chọn luật áp dụng, các bên cần cân nhắc kỹ, nên lựa chọn hệ thống pháp luật ổn định, quen thuộc, dễ dàng tiếp cận, và có phải khả năng thi hành.
Luật Minh Khuê( sưu tầm và biên tập)