Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Trọng tài quốc tế
Khác với các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao, các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường xét xử luôn đem lại kết quả là một phán quyết của cơ quan xét xử có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, cũng giống như trường hợp các biện pháp ngoại giao, việc sử dụng trọng tài hay tòa án để giải quyết tranh chấp quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thỏa thuận, chấp nhận của tất cả các bên tranh chấp. Sự ra đời nhanh chóng của nhiều thiết chế trọng tài, tòa án quốc tế trong vài thập niên trở lại đây được nhiều học giả trong lĩnh vực pháp luật quốc tế gọi là xu hướng “tư pháp hoá” quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều này một mặt cho thấy niềm tin, nhu cầu của các quốc gia đối với các thiết chế xét xử quốc tế ngày một tăng lên, mặt khác cũng cho thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết nhiều hơn trên cơ sở những tiêu chí pháp lý và thông qua những thủ tục ngày càng được thể chế hoá chặt chẽ hơn.
Việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương thức xét xử trọng tài được thực hiện qua hai hình thức cơ bản là trọng tài quốc tế vụ việc và trọng tài quốc tế thường trực. Trong phần này chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất của phương thức trọng tài quốc tế nói chung, có để cập đến hai thiết chế trọng tài thường trực là Tòa trọng tài quốc tế thường trực La Haye được thành lập trên cơ sở các Công ước La Haye năm 1899 và 1907 và Trọng tài Luật biển được thành lập trên cơ sở Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
2. Trọng tài quốc tế là gì?
Trọng tài quốc tế là một thiết chế giải quyết tranh chấp quốc tế mà thẩm quyền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận, thông qua thủ tục xét xử để đưa ra một phán quyết có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Việc sử dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp quốc tế có lịch sử lâu đời trong quan hệ quốc tế. Thực tiễn trọng tài được ghi nhận ngay từ thời kỳ cổ đại, và tiếp tục phát triển trong thời kỳ trung cổ, trước khi có sự ra đời của mô hình Nhà nước hiện đại. Trong các thời kỳ này chi tồn tại hình thức trọng tài quốc tế vụ việc, nhằm giải quyết những tranh chấp cụ thể.
Những điều ước quốc tế quan trọng sớm nhất đề cập đến hình thức trọng tài quốc tế thường trực là các Công ước quốc tế Lahay năm 1899 và 1907 về giải quyết các tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở hai công ước này đã hình thành lên Tòa trọng tài thường trực La Haye. Vào năm 1953, Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã xây dựng một văn kiện bao gồm các quy định mẫu về thủ tục trọng tài giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Các quy định mẫu này đề cập đến việc thành lập hội đồng trọng tài, xác định thẩm quyền của trọng tài, thủ tục trọng tài và hiệu lực pháp quyết của trọng tài. Tuy nhiên, các quy định này chỉ có giá trị tham khảo đối với các quốc gia.
3. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế
Thẩm quyền của trọng tài quốc tế xuất phát từ sự thoả thuận của các bên tranh chấp. Thỏa thuận này có thể nằm trong một điều ước quốc tế được ký kết từ trước giữa các quốc gia, quy định tranh chấp hoặc các tranh chấp phát sinh giữa họ sẽ được giải quyết bằng trọng tài. Thoả thuận về trọng tài cũng có thể là một văn bản được ký kết riêng biệt giữa các bên về việc đem một tranh chấp cụ thể đã phát sinh ra giải quyết bằng trọng tài. Việc ký kết thỏa thuận trọng tài phải tôn trọng sự bình đẳng và tự nguyện của các bên. Giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài được xem xét giống như khi xem xét giá trị pháp lý của một điều ước quốc tế. Trong trường hợp có tranh chấp về giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài hay thẩm quyền của trọng tài thì chính trọng tài là người có quyền giải quyết.
Thông thường trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý, tức là những tranh chấp về sự tồn tại, giải thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng trọng tài có thể được các bên yêu cầu giải quyết một tranh chấp chính trị. Trong trường hợp như vậy, để giải quyết tranh chấp, trọng tài có thể dựa trên nguyên tắc công bằng (ex aequo et bono).
4. Cách thức tổ chức của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế có hai hình thức tổ chức là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Trong trường hợp trọng tài vụ việc, việc lựa chọn trọng tài viên, thành lập hội đồng trọng tài, xác định các quy định tố tụng trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Trong trường hợp trọng tài thường trực, các vấn đề này được quy định trước trong điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài. Thiết chế trọng tài quốc tế thường trực tiêu biểu nhất là Toà trọng tài thường trực có trụ sở tại La Haye, được thành lập và hoạt động trên cơ sở Công ước La Haye năm 1899 và Công ước La Haye năm 1907.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng tính thường trực của Tòa trọng tài La Haye không thực sự đúng như tên gọi của nó. Tòa trọng tài La Haye không hề có một cơ quan xét xử thường trực nào mà thay vào đó là một danh sách các trọng tài viên được chỉ định bởi các quốc gia là thành viên của các Công ước La Haye năm 1899 và 1907. Cơ quan thường trực duy nhất của Tòa trọng tài La Haye là Văn phòng quốc tế đóng vai trò là cơ thư ký, tác nghiệp của Toà. Mỗi khi có tranh chấp chuyển đến, việc thành lập hội đồng trọng tài tại Tòa trọng tài thường trực La Haye cũng gặp những khó khăn tương tự như trường hợp thành lập hội đồng trọng tài vụ việc.
Một thiết chế trọng tài quốc tế thường trực khác là Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển. Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển là một trong những cơ quan trọng thì toà án có thể được các nước thành viên Công ước Luật Biển năm 1982 lựa chọn làm cơ quan giải quyết tranh chấp Tòa trọng tài Luật Biển có thẩm quyền bắt buộc trong nhiều trường hợp theo quy định tại Điều 287 của Công ước Luật Biển; khi các bên tranh chấp vào thời điểm chấp nhận Công ước đã lựa chọn Tòa là cơ quan giải quyết tranh chấp; khi các bên tranh chấp, hoặc một bên tranh chấp đã không lựa chọn cơ quan tài phán nào được nêu tại Điều 287. Khi các bên tranh chấp có sự lựa chọn khác nhau về cơ quan giải quyết tranh chấp. So với các cơ quan giải quyết tranh chấp khác như Toà án Công lý quốc tế, Toà án Luật biển, và Tòa trọng thì đặc biệt, rõ ràng Công ước Luật Biển ưu tiên việc xác định thẩm quyền cho Tòa trọng tài hơn.
Ngoài các quy định của bản thân Công ước, Tòa trọng tài còn được quy định bởi Phụ lục VII của Công ước. Cũng như trường hợp của Tòa trọng tài thường trực La Haye, Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển không thực sự là một thiết chế thường trực. Thay vào đó là một danh sách các trọng tài viên do các quốc gia thành viên đăng ký với Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Khi có vụ tranh chấp, các bên lựa chọn các trọng tài trong số danh sách trên để lập hội đồng trọng tài. Trong trường hợp có khó khăn về việc chọn trọng tài viên giữa các bên tranh chấp, Phụ lục VII quy định sự can thiệp của Chánh án Toà án quốc tế về Luật biển. Tòa trọng tài Luật biển cũng không có cơ quan thư ký thường trực. Cuối cùng, Toà cũng không có bản nội quy, quy tắc tổ tụng riêng. Quy tắc tố tụng do chính các trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài thỏa thuận xây dựng cho từng vụ việc.
Một hội đồng trọng tài luôn luôn có số lượng trọng tài viên ở số lẻ, trong một số trường hợp, hội đồng trọng tài chỉ có một trọng tài viên duy nhất. Nếu hội đồng trọng tài có 3 trọng tài viên thì thông thường mỗi bên tranh chấp sẽ cử một trọng tài viên mang quốc tịch nước mình, trọng tài viên thứ ba còn lại sẽ do các bên tranh chấp hoặc do hai trọng tài viên đã được chỉ định lựa chọn, nhưng phải mang quốc tịch nước thứ ba. Cách thức tương tự cũng được áp dụng trong trường hợp số lượng trọng tài viên là 5, hay 7, Các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận rằng tất cả các trọng tài viên đều mang quốc tịch của nước không phải là bên tranh chấp.
Ngoài trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước Luật Biển 1982 còn quy định về một Tòa trọng tài đặc biệt thành lập theo Phụ lục VII Công ước. Điều 1 Phụ lục VIII Công ước Luật Biển năm 1982 quy định:
“Với điều kiện tuân thủ phần XV, mọi bên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của Công ước liên quan đến:
1 Việc đánh bắt hải sản;
2 Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
3 Việc nghiên cứu khoa học biển;
4 Hàng hải;
kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận chìm, có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đặc biệt được quy định trong Phụ lục này bằng thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp; thông báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các căn cứ của các yêu sách đó.”
5. Tố tụng và giá trị phán quyết của trọng tài quốc tế
Các quy tắc tố tụng của trọng tài quốc tế hoàn toàn do các quốc gia tranh chấp quyết định nếu đó là một hội đồng trọng tài vụ việc. Nếu vụ việc được giải quyết bởi một tổ chức trọng tài thường trực, hội đồng trọng tài áp dụng các quy tắc tố tụng quy định trong quy chế, điều lệ tố tụng của tổ chức trọng tài. Các quy định về tố tụng trọng tài trong các Công ước La Haye năm 1899 và 1907, cũng như các quy định mẫu của Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc chỉ đóng vai trò tham khảo đối với các bên tranh chấp.
Về nguyên tắc, các phán quyết của trọng tài quốc tế có giá trị chung thẩm. Trong một số trường hợp, có thể có những thủ tục tố tụng đặc biệt cho phép các bên yêu cầu trọng tài giải thích, làm rõ những điểm trong phán quyết hoặc chỉnh sửa những lỗi kỹ thuật, tính toán trong phán quyết.
Phán quyết của trọng tài quốc tế chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên trong tranh chấp đã chấp nhận thẩm quyền của trọng tài. Tuy nhiên, khác với cơ chế thực thi các phán quyết trọng tài trong hệ thống pháp luật trong nước, phán quyết của trọng tài quốc tế giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia chỉ được thực hiện dựa trên sự tự nguyện của các bên. Việc một quốc gia không thực hiện phán quyết có hiệu lực của trọng tài được coi là hành vi vi phạm một nghĩa vụ pháp lý quốc tế.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê (sưu tầm và biên tập).