1. Tiểu sử của Antoine-Augustin Cournot (1801-1877)

Antoine-Augustin Cournot, một trong những nhà tư tưởng độc đáo nhất công kích thuyết kinh tế, dẫn đến một cuộc đời đầy bi kịch và thất vọng. Sinh năm 1801 ở Haute-Saône, Pháp, Cournot ban đầu ở các trường địa phương trước khi vào học trường École Normal ở Paris khi 20 tuổi, nơi đây ông tiếp tục học môn toán. Trong suốt quãng đời thanh niên, Cournot say sưa đọc sách (khoa học và các môn khác) bất kể nguy cơ bệnh mù đang lơ lửng. Khi trường Ecole Normale giải thể, Cournot vẫn còn ở Paris, ở đây sau những ngày cơ hàn, ông xin được chân thư ký cho một trong những viên tướng của Napoleon, Marshall Gouvion Saint-Cyr. Ông lấy bằng tiến sĩ trong thời gian này (1823 đến 1833) và tiếp xúc với những trí thức hàng đầu của thời đại, nhiều người trong số này là khoa học vật lý và kỹ sư. Trong thời gian còn là sinh viên, Cournot đăng một số bài báo, cũng như hồi ký về quân sự của người tuyển dụng ông.

Bài báo của ông thu hút sự chú ý của nhà vật lý và thống kê học lừng danh Poisson, sau này giúp ông có việc làm ổn định: giáo sư toán học ở Lyons năm 1834. Ở đây Cournot dạy các phép tính vi phân và hoàn tất tác phẩm đầu tiên về xác suất (Exposition de la thếorie des chances et des probabilités). Năm sau, Cournot được bổ nhiệm làm giám thị trường Grenoble, trong vòng vài tháng ông đảm nhận trách nhiệm phụ làm Tổng thanh tra giáo dục (kế vị Ampère, tất cả sinh viên trong ngành điện đều biết tiếng). Năm 1838, Cournot lập gia đình và cũng xuất bản tác phẩm kinh tế vĩ mô ảnh hưởng mạnh về sau, Recherches sur les principes mathématiques de la théorie des richesses (Nghiên cứu các nguyên lý toán học Thuyết của cải). Ông cũng là tiến hành cuộc tổng thanh tra trong ngành giáo dục, có cơ sở ở Paris.

Thị lực yếu buộc Cournot phải xin nghỉ ở Ý năm 1844. Ông làm giám thị Viện hàn lâm Dijon năm 1854, và ông ở lại đây cho đến khi về hưu năm 1862. Trong suốt giai đoạn này và trong khi nghỉ hưu ở Paris, Cournot tiếp tục xuất bản sách về triết học kinh tế và các vấn đề kinh tế. Có lẽ do ông dần dần bị mất thị lực, nên đặc điểm tác phẩm của ông đã thay đổi. Hai tác phẩm sau cùng về kinh tế, Principles de la théorie des richessesRevue sommaire des doctrines économiques, xuất bản năm 1863 và 1877, không dùng toán học để xử lý các vấn đề kinh tế, và không bổ sung đáng kể vào tác phẩm ban đầu ông viết về thuyết kinh tế (Recherches). Cournot đột tử năm 1877, nhưng buồn thay, hầu như không ai lưu tâm đến công trình của ông về lý thuyết kinh tế, với một số ngoại lệ như Leon Walras. Có lẽ đối với ông chỉ hơi ngạc nhiên và hài lòng trong diễn tiến phân tích kinh tế vi mô vào giai đoạn sau 1877 vì tác động và ảnh hưởng của ông thấm nhuần vào chính cốt lõi của thuyết kinh tế hiện đại.

Ngày nay, công trình của Cournot được công nhận trong kinh tế lượng . Ông cũng là một giáo viên kinh tế chính trị và toán học cho Auguste Walras , cha của Léon Walras . Cournot và Auguste Walras thuyết phục Léon Walras thử kinh tế học chính trị. Cournot cũng được cho là một trong những nguồn cảm hứng cho Léon Walras và lý thuyết cân bằng của ông. Trong lĩnh vực kinh tế, ông được biết đến với công việc của mình trong lĩnh vực lý thuyết độc quyền— Cạnh tranh Cournot được đặt theo tên của ông.

2. Ý nghĩa của việc Cournot bàn về phương pháp

Quan điểm của Coumot về phương pháp thích hợp trong kinh tế chính trị học mang ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá vai trò của ông trong phát triển lý thuyết. Bào chữa cho việc sử dụng toán học như phép tốc ký diễn đạt những quan điểm phức tạp, Cournot đánh giá nỗ lực ban đầu của Smith, Say và Ricardo như sau:

“Có những tác giả như Smith và Say, những người khi viết về Kinh tế chính trị học đều giữ gìn mọi vẻ đẹp theo phong cách văn học thuần túy, nhưng có những người khác, như Ricardo khi xử lý các vấn đề trừu tượng nhất hay khi tìm kiếm tính chính xác đều không thể tránh phép tính đại số, và chỉ ngụy trang bằng các phép tính số học với sự dài dòng buồn tẻ. Bất kỳ ai hiểu khái niệm đại số, chỉ cần thoáng nhìn một phương trình thôi cũng biết được kết quả mà phải mất nhiều công sức nếu tính theo số học”. (Mathematical Prin­ciples, trang 4).

3. Phương pháp sử dụng toán học

Ngoài ra, trong một bênh vực sử dụng toán học xuất sắc của ông, sự phê bình của ông đối với các tác giả trước kia như sau: “Họ hình dung việc sử dụng các ký hiệu và công thức lẽ ra không có mục đích nào khác hơn mục đích các phép tính bằng con số'” và họ không nhìn thấy mục đích của phân tích toán học là phải “tìm ra mối quan hệ giữa độ lớn không thể tính bằng các con số và giữa các hàm mà định luật của họ không thể được diễn đạt bằng những ký hiệu đại số'”. Quan điểm về phương pháp này vẫn tồn tại dai dẳng trong các tác phẩm sau này của ông. Cournot viết năm 1863, “Khoa học đưa đến một số kết quả hữu ích từ những đặc điểm chung mà chúng cung cấp, hay một số mối quan hệ có thể tồn tại giữa chúng và chỉ các lý do tỏa ra ánh sáng”. Vì thế, Cournot đấu tranh cho việc sử dụng toán học, nhất là phép tính vi phân và tích phân trong diễn đạt những hàm tùy ý, với những hạn chế thỏa cho một số điều kiện. Ví dụ, giống như mọi sinh viên kinh tế học, có thể làm cho phương pháp của Cournot dễ hiểu hơn.

4. Định luật cung cầu

Một trong những thành tựu quan trọng của Cournot là phát hiện định luật cung cầu (loi de débit). Như hầu hết sinh viên đều biết, luật cung cầu phát biểu rằng số lượng được yêu cầu là một hàm giá cả, hay D = F (P). Dĩ nhiên, số lượng được yêu cầu liên quan đến nhiều biến số khác (thu nhập, của cải và v.v...) nhưng những biến số này được cho là bất biến khi phác họa một bảng kê nhu cầu cá nhân. Khi một trong những yếu tố xác định phi giá cả xuất hiện khi giá cả thay đổi, thì tất cả những yếu tố quyết định còn lại bất biến. Cournot hiểu thấu đáo giá trị phân tích giả định ceteris paribus hay “các điều kiện khác”. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Principles de la théorie des richesses trong đó ông lưu ý định luật cung cầu

“... chủ yếu dựa vào dân số, vào sự phân phối của cải, vào phúc lợi chung, vào thị hiếu, vào thói quen của dân số tiêu dùng, vào sự gia tăng của thị trường, vào sự mở rộng thị trường do cải thiện điều kiện vận chuyển. Tất cả những điều kiện này liên quan đến nhu cầu vẫn giữ nguyên, nếu chúng ta cho rằng điều kiện sản xuất thay đổi (nghĩa là phí tổn tăng hay giảm, rằng độc quyền được hạn chế hay trấn áp, rằng thuế tăng hay giảm nhẹ, rằng cạnh tranh nước ngoài bị ngăn cấm hay cho phép), thì giá cả sẽ thay đổi và những biến đổi tương ứng trong cầu, với điều kiện giá cả thực sự tăng, sẽ dùng để xây dựng các bảng thực nghiệm của chúng ta. Nếu trái lại, giá cả thay đổi bởi vì bản thân luật cung cầu đã thay đổi, do sự thay đổi về nguyên nhân không làm ảnh hưởng đến sản xuất nữa mà làm ảnh hưởng đến tiêu dùng, thì việc lập bảng của chúng ta sẽ không thể được, vì chúng phải chứng minh sự thay đổi về cầu do thay đổi giá cả chứ không do thay đổi từ các nguyên nhân khác ra sao(1). Rõ ràng Cournot đồng nhất luật cung cầu với nhận thức hiện đại về hàm cầu, tương tự, sự thay đổi của ông trong “cầu” tương ứng với cách sử dụng hiện đại sự thay đổi trong “số lượng được cầu”. Phương pháp phân tích này ngày nay phổ biến đến mức lý thuyết gia hiện đại không nghĩ đến việc diễn đạt những ý tưởng phức tạp bằng hình thức lời nói nữa, nhưng Cournot tiên phong trong các tiếp cận toán học và đồ thị khi sự diễn đạt bằng lời là chiến thuật duy nhất của lý thuyết gia.

5. Phân tích kinh tế phải đặt nền tảng trên sự quan sát thực nghiệm và trong thực tế

Cournot tìm cách phát triển loại lý thuyết nào bằng công cụ toán học? Thuyết mà ông trầm ngâm suy tính có hão huyền hay xa rời thực tế hay không, như nhiều tranh luận về thuyết kinh tế ngày nay hay không? Lời đáp cho những vấn đề này cho thấy tính chất đối ngẫu sắc nét trong tiếp cận phương pháp của Cournot. Ông nhận thức phân tích kinh tế phải đặt nền tảng trên sự quan sát thực nghiệm và trong thực tế. Điểm có thể minh họa bằng cách trở về khái niệm mở đường của Cournot về luật cung cầu.

Sau khi phủ nhận tính hiệu dụng như nền tảng trong hàm cầu của ông, Cournot trình bày những gì về cơ bản là tiếp cận cầu theo thực nghiệm. Nhan đề trong chương về cầu nằm trong Recherches, “De La Loi du debit” ban đầu hay “Luật kinh doanh”, nhắm vào cách tiếp cận thực nghiệm này, và Cournot đưa ra một định nghĩa thực nghiệm rất minh bạch về hàm cầu của mình. Ông viết “Kinh doanh hay cầu (đối với chúng ta hai từ này là đồng nghĩachúng ta không nghiên cứu những gì mà lý luận bên mua cần phải cân nhắc nhu cầu mà không có sự buôn bán tiếp theo sau)... gia tăng khi giá cả giảm”. Ông thừa nhận giá cả và luật cung cầu có thể dao động trong thời hạn một năm, và ông xác định đường cong phải liên quan đến giá hàng năm bình quân p với F (P), “số lượng bán ra hàng năm trong nước hay trong thị trường đang nghiên cứu”. Do đó, D = F (P) là đường cong nối dữ liệu theo chuỗi thời gian và giá cả ở đó thực hiện những vụ mua bán này.

Vì thế đặc điểm cầu lý thuyết của Cournot (tiếp tục dốc âm) do sự quan sát của riêng ông và sự đơn giản hóa và sự quan sát các mối quan hệ giữa giá cả và số lượng. Khi ấy thuyết có thể được ủng hộ từ. những thực tế này và vận dụng để đi đến những suy luận căn cứ trên một số giả định. Nhưng thuyết bắt nguồn và cụ thể hóa trong trường hợp thứ nhất từ sự kiện quan sát thực tế chứ không phải từ sự thất thường. Công cụ, cũng được bắt nguồn như thế, có tính hữu dụng và tính phổ biến vượt khỏi thực tế thực nghiệm mà chúng sinh ra. Đây là một phần trong thiên tài của Cournot đã có khả năng nhận biết và giải thích những phương pháp lý thuyết và xây dựng mô thức này.

LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm)