Mục lục bài viết
1. Sự bãi bỏ điều tiết trong một số ngành công nghiệp
Sự bãi bỏ điều tiết trong một số ngành công nghiệp trở thành đặc điểm của các chính khách đảng Dân chủ lẫn Cộng hòa trong những năm 1970, một thực tế miêu tả sự thay đổi dễ nhận thấy và ấn tượng trong sự nhấn mạnh triết học của “chủ nghĩa tự do trong chính sách kinh tế, xã hội mới” ở Mỹ. Về lịch sử, việc điều tiết một số ngành công nghiệp, nhất là những ngành được xem là “hiệu dụng” hay độc quyền tự nhiên được nghiên cứu trong “công ích”. Sau khi thành lập năm 1887 cơ quan điều tiết liên bang quy mô lớn lần đầu tiên (Uy ban thương mại liên tiểu bang), các nhà kinh tế học tốn khá nhiều giấy mực để nghĩ ra công cụ định giá tốt hơn nhằm thực hiện quá trình điều tiết. Một khối lượng tài liệu đồ sộ phát triển trên những chủ đề như định giá phí tổn biên tế, phân biệt giá, và định giá khi lượng cầu cao nhất, tất cả có vẻ ngoài là một số sử dụng trong việc thực hiện chính sách công trong các lĩnh vực điều tiết của nền kinh tế. Toàn bộ quá trình điều tiết được xem là bắt nguồn trực tiếp từ thất bại thị trường và từ tính nhất thiết tiếp theo sau của hành động của chính phủ trong công ích. Trong khi việc thực hiện quá trình điều tiết được thừa nhận, thì hầu hết các nhà kinh tế học sắp thành hàng phía sau quan điểm cho rằng điều tiết cần phải có do sự có mặt của “độc quyền tự nhiên” và hơn nữa quá trình có thể hoàn tất bằng những phỏng chừng liên tiếp nhau trong sự kiểm soát.
2. Sự thay đổi quan điểm
Khám phá biến cố học thuật trong những năm 1960 làm thay đổi tất cả những quan điểm này trong ngành kinh tế học và sau cùng trong số giới chính trị gia cũng như công chúng. Chúng ta đã đề cập một trong những phát triển này - sự xuất hiện mô hình lựa chọn công với sự nhấn mạnh vào các nhà chính trị như những diễn viên nội sinh trong quá trình kinh tế. Đơn thuần vẫn còn áp dụng những nguyên tắc này vào quá trình điều tiết thông qua lý thuyết tiền thuê đất hay các nhà chính trị và điều tiết (“chính phủ”) tạo ra lợi nhuận. Giai đoạn này ấn định bằng hai luận văn quan trọng trong năm 1962. George Stigler và Claire Friedland làm tan băng bằng tiểu luận đặt vấn đề ảnh hưởng của điều tiết đối với những biến số chẳng hạn như mức thuế, mức phân biệt giá và lợi suất (What Can Regulators Regulate? The Case of Electricity). Kết luận đáng ngạc nhiên của họ, căn cứ vào số liệu thống kê trước và sau khi điều tiết điện phục vụ công ích, là sự điều tiết gần như hoàn toàn không hiệu quả khi kiểm soát số lượng có mục đích phải kiểm soát. Họ nhận xét:
“Lý thuyết điều tiết giá thực ra phải dựa trên giả định ngầm cho rằng trong sự vắng mặt độc quyền có quá nhiều sức mạnh. Nếu điều này đúng thì độc quyền thuần túy sẽ hưởng lợi khi không có điều tiết sẽ cao hơn lợi suất cạnh tranh từ 10 đến 20%, vì thế giá sẽ luôn trong thứ tự từ 40 đến 80% cao hơn phí tổn biên tế dài hạn, thật ra có một số khả năng có thể của sự điều tiết hiệu quả. Điện phục vụ công ích không cung cấp khả năng có thể như thế (“What Can Regulators Regu-lateĩ” trang 12).
Đóng góp thứ hai không kém phần thuyết phục trong việc đặt vấn đề suy nghĩ trong thời gian về điều tiết. Harvey Averch và Leland L. Johnson phát triển lý thuyết về hoạt động của doanh nghiệp khi đối mặt trước sự hạn chế lợi suất điều tiết (“Behavior of the Firm under Regulatory Constraint, 1962). Họ kết luận trong một số trường hợp, doanh nghiệp điều tiết sẽ đầu tư quá mức vào vốn cố định, ít nhất xét từ quan điểm xã hội. Mặc dù tối ưu (nghĩa là tối đa hóa lợi nhuận) từ lập trường của doanh nghiệp điều tiết, quá nhiều vốn (liên quan đến dầu vào lao động) sẽ đẩy phí tổn dịch vụ hiệu dụng cho xã hội. Sự tương quan thực nghiệm của hiệu ứng Averch-Johnson này vẫn đang được các nhà kinh tế học và kinh toán học tranh luận, nhưng luận điệu của họ cùng với luận điệu của Stigler, Friedland và các tác giả khác, giúp suy nghĩ lại về toàn bộ quá trình điều tiết. Ngoài ra, sự đánh giá lại này chịu nhiều ảnh hưởng của kinh tế học chính trị và tìm kiếm tiền thuê đất.
3. Tiền thuê đất, chính trị học và sự điều tiết
Chúng ta cùng tìm hiểu “tiền thuê đất”. Mô thức cơ bản trình bày trong Hình 24-4.
Để đơn giản, cứ cho rằng các đường cong nhu cầu tuyến tính và thu nhập biên tế cộng với hàm bình quân không đổi và phí tổn biên tế. Trong điều kiện cạnh tranh, số lượng Qc sẽ được tạo ra và bán với giá Pc. Một tổ chức độc quyền hay một cartel hợp pháp hóa chẳng hạn như được tạo ra trong hệ thống điều tiết, có thể sẽ có ảnh hưởng tạo ra sự sụt giảm đầu ra Qm và tăng giá đến Pm. Điều quan trọng nên nắm là tính chất mất khống. Hình tam giác AFG tương ứng với sự mất không do độc quyền không được phát triển.
Sự mất không đầu tiên do viên kỹ sư Pháp Jules Dupuit lưu ý. Sự mất không như thế luôn tồn tại bất cứ khi nào giá cả vượt quá phí tổn biên tế (thuế tiêu thụ và giá độc quyền đều giống nhau trong trường hợp này).
Nhưng vùng PP'AF là gì? Nhiều nhà kinh tế học khẳng định đây là “tiền thuê đất” chỉ tượng trưng cho sự tái phân phối từ người tiêu dùng đối với nhà độc quyền. Trong bối cảnh quá trình điều tiết, tiền thuê đất có thể xét bằng một đối thủ cạnh tranh bất kỳ như giá trị thu được đặc quyền. Nói cách khác nếu đưa ra một phần thưởng duy nhất, mỗi đối thủ cạnh tranh sẽ có động cơ chi tiêu một số lượng PPmAF ít hơn số rất nhỏ, đối với đặc quyền ban cấp độc quyền dành riêng. Cũng như thế, một cartel cứ cho rằng có phần trong các doanh nghiệp có thể nghĩ ra theo cách rẻ tiền và hiệu quả. Sự tùy ý sử dụng và phân bố những tiền thuê đất này là do vận động hành lang hay phí hợp pháp. Nên nhớ các nguyên tắc này, chúng ta trở lại các mối quan hệ nối liền nhau về chính trị và kinh tế trong quá trình điều tiết.
Sự không hoàn toàn dễ nhận thấy đang tồn tại trong lập luận trên, về pháp lý, dĩ nhiên, các nhà chính trị và điều tiết không thể nhận hối lộ mặc dù như đã nêu, trả lương bí mật và phi pháp thường là đặc điểm không thích đáng của các cấp chính phủ. Trả lương từ lợi nhuận kinh doanh có thể ở dạng khác, dĩ nhiên, và những động cơ này là điểm chính trong lý thuyết điều tiết hiện đại. Điều tiết, như bất kỳ hàng hóa khác, chẳng hạn như đôi giày hay bia, được yêu cầu và cung cấp với động cơ tư lợi làm nền tảng.
Trong một bài luận văn lý thú xuất bản năm 1971 (“The Theory of Economic Regulation”), George Stigler bổ sung lý thuyết “lũng đoạn” điều tiết trên cơ sở động cơ tư lợi của người có nhu cầu và nhà cung cấp. Quan điểm này, phải được nhấn mạnh, về bề ngoài có vẻ giống như khái niệm của Marx cho rằng “vốn” sử dụng công cụ của nhà nước và chính trị để lũng đoạn lợi ích. Trong lý thuyết về vốn hay “kinh doanh” hiện đại không phải lúc nào cũng chiếm ưu thế. Nhiều nhóm khác nhau, như người lao động, nông dân hay người tiêu dùng có thể hình thành hay đảm nhận hệ thống điều tiết ở các thời điểm khác nhau. Theo quan điểm của Stigler điều tiết làm lợi cho các nhóm có ảnh hưởng chính trị.
3. Tiền thuê cổ điển (tiền thuê đất)
Trong kinh tế chính trị, bao gồm cả dân số học , kinh tế học cổ điển, chủ nghĩa Georgism và các trường phái tư tưởng kinh tế khác, đất đai được coi là một yếu tố sản xuất không co giãn. Đất đai, theo nghĩa này, có nghĩa là độc quyền tiếp cận bất kỳ cơ hội tự nhiên nào. Tiền thuê là phần trả cho chủ sở hữu tự do để cho phép sản xuất trên đất mà họ kiểm soát.
Ngay khi đất đai của bất kỳ quốc gia nào đều trở thành tài sản tư nhân, các địa chủ, giống như tất cả những người đàn ông khác, thích gặt hái ở những nơi họ chưa từng gieo, và đòi tiền thuê ngay cả đối với sản phẩm tự nhiên của nó. Gỗ rừng, cỏ ruộng, và tất cả hoa trái tự nhiên trên đất, mà khi đất còn chung, người lao động chỉ tốn công hái lượm, đến với anh ta, còn phải trả thêm giá. cố định trên chúng. Sau đó anh ta phải trả tiền cho giấy phép để thu thập chúng; và phải chia cho chủ nhà một phần những gì mà sức lao động của anh ta thu lượm được hoặc sản xuất ra. Phần này, hoặc, điều tương tự, giá của phần này, cấu thành tiền thuê đất ...
- Adam Smith : Sự giàu có của các quốc gia
David Ricardo được ghi nhận là người đầu tiên có công trình phân tích rõ ràng và toàn diện về chênh lệch địa tô và các mối quan hệ kinh tế liên quan ( quy luật địa tô ).
Johann Heinrich von Thünen có ảnh hưởng trong việc phát triển phân tích không gian của giá thuê, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của vị trí trung tâm và giao thông. Nói một cách đơn giản, đó là mật độ dân số, làm tăng lợi nhuận của thương mại và cung cấp cho sự phân công và chuyên môn hóa lao động, đã dẫn đến giá thuê thành phố cao hơn. Giá thuê cao này xác định rằng đất ở một thành phố trung tâm sẽ không được giao cho nông nghiệp mà thay vào đó được giao cho các mục đích sử dụng thương mại hoặc dân cư có lợi hơn.
Nhận thấy rằng việc đánh thuế đối với tiền thuê đất chưa sử dụng sẽ không làm sai lệch các hoạt động kinh tế, Henry George đề xuất rằng tiền thuê đất được thu công khai (đánh thuế giá trị đất ) nên là nguồn thu chính (hoặc duy nhất), mặc dù ông cũng ủng hộ quyền sở hữu công cộng, đánh thuế và sự điều tiết của các công ty độc quyền tự nhiên và các công ty độc quyền theo quy mô mà không thể bị loại bỏ bởi các quy định.
5. Tiền thuê Paretian tân cổ điển
Kinh tế học tân cổ điển mở rộng khái niệm tiền thuê để bao gồm các yếu tố khác ngoài giá thuê tài nguyên thiên nhiên.
- "Thu nhập vượt quá số tiền cần thiết để giữ cho nhân tố trong nghề nghiệp hiện tại của nó."
- "Sự khác biệt giữa số tiền mà một yếu tố sản xuất được trả và số tiền nó cần phải trả để duy trì ở mức sử dụng hiện tại."
- "Lợi tức vượt quá chi phí cơ hội hoặc lợi nhuận bình thường cần thiết để giữ cho tài nguyên được sử dụng hiện tại."
Việc ghi nhãn phiên bản tiền thuê này là "Paretian" có thể là một cách hiểu nhầm ở chỗ Vilfredo Pareto, nhà kinh tế học mà loại tiền thuê này được đặt tên, có thể đã đưa ra bất kỳ công thức khái niệm nào về tiền thuê nhà.