Mục lục bài viết
1. Áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Căn cứ áp dụng BPNCTG là những tài liệu, chứng cứ dự báo có đầy đủ cơ sở về khả năng NBBT sẽ gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án hình sự hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Theo đó, căn cứ áp dụng, huỷ bỏ, thay thế BPNCTG là những cơ sở, điều kiện cần có do pháp luật TTHS quy định để CQ/NCTQTHTT làm hệ quy chiếu đối với hành vi tội phạm cụ thể, trong quá trình xử lý vụ án hình sự, đồng thời là cơ sở để người bị áp dụng biện pháp này kiểm tra tính đúng đắn đối với chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPNC, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ áp dụng, huỷ bỏ, thay thế BPNCTG là nội dung quan trọng khi quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong TTHS có ý nghĩa trong việc xác định khi nào sẽ được áp dụng, khi nào hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn. Nói cách khác, dựa vào đâu để có thể áp dụng BPNCTG đối với người bị buộc phạm tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo Giáo sư luật học I.L. Petrukhin thì căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn không phải là sự kiện bị cáo thực hiện hành vi phạm nghĩa vụ tố tụng mà là sự dự báo có đầy đủ cơ sở về khả năng thực hiện hành vi bất lợi của bị cáo. Những hành vi bất lợi của bị cáo được hiểu là: hành vi trốn tránh hoạt động điều tra, xét xử; hoặc gây khó khăn cho việc thi hành án hình sự; gây khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án; hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Do đó, không thể lấy mức độ nguy hiểm của tội phạm làm căn cứ duy nhất để áp dụng tạm giam. Thực tiễn cho thấy, có trường hợp bị can, bị cáo khi bị phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm đã ăn năn hối hận, thành khẩn khai báo trong quá trình giải quyết vụ án để mong được hưởng chính sách khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật; có những trường hợp tuy phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng là do bột phát, nhất thời không làm chủ được mình và không có dự mưu; ngoài ra có nhiều vụ án, ban đầu bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng về sau lại được thay đổi với tội nhẹ hơn. Do vậy, chỉ căn cứ vào loại tội phạm mà bị can, bị cáo được cơ quan có thẩm quyền “dự kiến” truy cứu làm căn cứ để áp dụng BPNCTG là chưa xác đáng, chưa đúng hoàn toàn đúng với mục đích và ý nghĩa khi áp dụng biện pháp này.
Hơn nữa, BPNCTG buộc phải cách ly NBBT khỏi đời sống xã hội dẫn tới hàng loại các QCN của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, do vậy, căn cứ áp dụng BPNCTG phải là những căn cứ có thật, phải chứa đựng những thông tin khách quan, đầy đủ, toàn diện, chính xác về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi có dấu hiệu tội phạm, tức căn cứ phải đảm bảo yếu tố định lượng thay vì định tính phụ thuộc nhận thức của CQ/NCTQTHTT. Việc quy định căn cứ áp dụng BPNCTG chung chung nặng tính định tính, tạo sự tùy nghi và phụ thuộc nhiều vào nhận thức của chủ thể có thẩm quyền, dễ dẫn tới lạm dụng, tuỳ tiện trong việc áp dụng biện pháp này. Thêm nữa, cần căn cứ vào nhân thân của đối tượng (như tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, thái độ làm việc, thái độ trong quan hệ với người khác, trình độ học vấn, lối sống, hoàn cảnh gia đình, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự) để dự báo được khả năng thực tế có thể xảy ra một khả năng người đó phạm một tội khác, bỏ trốn hoặc cản trở hoạt động tố tụng, chứ không thể là căn cứ mang tính suy diễn từ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi có “dấu hiệu” phạm tội mà họ bị cho là đã thực hiện.
Như vậy, cần nhận thức BPNCTG là biện pháp có tính chất lựa chọn “có thể áp dụng” tức là không bắt buộc áp dụng đồng loạt cho NBBT khi họ thoả mãn các căn cứ vì các căn cứ này chỉ là điều kiện cần và đủ để xem xét áp dụng biện pháp này khi có căn cứ cho thấy việc áp dụng các biện ngăn chặn khác không đạt hiệu quả và mục đích của BPNCTG.
2. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam
Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, các căn cứ thực tế có thể luôn thay đổi, vì vậy khi căn cứ để áp dụng BPNCTG không còn thì CQ/NCTQTHTT phải xem xét huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Theo đó, huỷ bỏ BPNCTG là việc cơ quan/người có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự quyết định không tiếp tục áp dụng BPNCTG đang còn hiệu lực với người bị áp dụng, tức việc tiếp tục áp dụng biện pháp này là không cần thiết nữa, đồng thời cũng không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Bên cạnh đó, cần nhận thức việc huỷ bỏ BPNCTG như là một hậu quả tất yếu khi quá trình tố tụng đối với vụ án đã chấm dứt, lúc này mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng đương nhiên bị huỷ bỏ, bao gồm: đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra với NBBT; NBBT được toà án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc hình phạt nhưng không phải là tù giam.
3. Thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam
Thay thế BPNCTG là việc cơ quan/người có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự quyết định sử dụng một biện pháp ngăn chặn khác ít khắc nghiệt hơn nhưng vẫn đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ tố tụng hình sự. Như vậy, việc thay thế BPNCTG được đặt ra khi có căn cứ cho rằng, việc tiếp tục áp dụng BPNCTG là không cần thiết nữa nhưng phải áp dụng một biện pháp ngăn chặn khác. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền, thông qua hoạt động nghiệp vụ kiểm soát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc áp dụng BPNCTG để kịp thời phát hiện nhằm huỷ bỏ, thay thế biện pháp này ngay khi không đáp ứng một trong các điều kiện do luật định. Đây là một trong những hoạt động quan trọng của chủ thể có thẩm quyền, góp phần đảm bảo mục đích và ý nghĩa đúng đắn của BPNCTG, qua đó quyền của người bị tạm giam được bảo đảm và hạn chế tới mức thấp việc áp dụng biện pháp này, cũng như là cơ sở chống lại sự tuỳ tiện và lạm dụng xem BPNCTG như một công cụ điều tra.
4. Thẩm quyền đối với việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền là một khái niệm quan trọng, trung tâm, là quyền được chính thức được xem xét để kết luận, quyết định một vấn đề. Thẩm quyền trong TTHS được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan/người, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định. Thẩm quyền đối với BPNCTG trong TTHS có sự đồng nhất giữa thẩm quyền áp dụng với thẩm quyền hủy bỏ và thay thế; theo đó, cơ quan/ người có thẩm quyền áp dụng thì cũng có thẩm quyền hủy bỏ, thay thế BPNCTG trong quá trình giải quyết vụ án.
Thẩm quyền áp dụng BPNCTG là những CQ/NCTQTHTT hoặc những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan/người tiến hành tố tụng được qui định trong phạm vi, giới hạn cũng như theo thủ tục của pháp luật. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế các cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà luật TTHS qui định. Ngoài các đối tượng kể trên không ai có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, mọi hành vi áp dụng biện pháp cưỡng chế không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm tuỳ theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài việc quy định chặt chẽ về căn cứ, trình tự, thủ tục đối với việc áp dụng BPNCTG nhằm mục đích bảo vệ QCN của người bị tạm giam và hướng tới hạn chế tới mức thấp việc áp dụng biện pháp này, đồng thời cần nhận thức BPNCTG là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Tinh thần này, phù hợp với tư tưởng nhân văn, tiến bộ được ghi nhận trong Công ước của Liên
Hợp Quốc về các quyền dân sự và chính trị: Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước Tòa án, nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp. Tương tự, Hiến pháp 2013 ghi nhận “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”. Pháp luật tố tụng hình sự một số nước như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc... cũng quy định chỉ có Tòa án mới có quyền áp dụng BPNCTG với một thủ tục giản lược do một Thẩm phán quyết định. Khi bàn về thực hiện chủ trương “Thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng BPNCTG” theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, đa số các ý kiến tán thành phải hạn chế người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam và hạn chế người có thẩm quyền quyết định việc tạm giam; tuy nhiên, hạn chế như thế nào còn có nhiều quan điểm khác nhau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, vì tạm giam là biện pháp cưỡng chế khắc nghiệt nhất, tạm thời tước tự do của công dân nên khi áp dụng thì cần phải được kiểm soát chặt chẽ bởi một cơ quan thực hiện chức năng xét xử, không nên giao cho cơ quan thực hiện chức năng buộc tội, bởi vì, họ dễ lạm dụng lệnh tạm giam để thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố. Theo đó, nên để TA mà cụ thể là Thẩm phán (không xét xử vụ án) có quyền quyết định tạm giam trong cả giai đoạn điều tra, truy tố theo đề nghị của cơ quan Công tố như ở một số nước. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, thì có thể hạn chế tạm giam đối với một số loại tội phạm nghiêm trọng và rất nghiêm trọng do vô ý, một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; quản lý hành chính, tội phạm về môi trường; một số tội phạm về chức vụ và một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp.
Có ý kiến lại cho rằng, cần thiết phải thu hẹp đối tượng có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG, theo đó chỉ có Viện trưởng VKS các cấp; Chánh án Tòa án các cấp; Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền này. Theo tác giả Trần Văn Độ hiện nay có 9 nhóm cá nhân và tập thể có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam và cần thiết nghiên cứu việc thay đổi các đối tượng có thẩm quyền quyết định biện pháp tạm giam, giao cho người trực tiếp THTT trong vụ án có thẩm quyền này để nâng cao tính thực tế và tính trách nhiệm trong thi hành công vụ. Với tính cấp thiết trong áp dụng của BPNCTG, mô hình tố tụng thẩm vấn, cũng như điều kiện địa lý, điều kiện làm việc của Việt Nam, tác giả cho rằng, việc chỉ giao cho Tòa án có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG là đúng về bản chất tổ chức, hoạt động tư pháp.
BPNCTG là một trong những biện pháp cưỡng chế của nhà nước, do vậy trước hết có mục đích chung là “biện pháp cưỡng chế nhà nước có đặc điểm phòng ngừa”. Mục đích của việc áp dụng BPNCTG là để kịp thời ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án. Mục đích của việc quy định thẩm quyền được áp dụng BPNCTG với phạm vi hẹp là xuất phát từ các đặc điểm nêu trên. Theo đó, để hạn chế việc áp dụng BPNCTG một cách tràn lan và tùy tiện, thì việc quy định chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNCTG là một trong những điều kiện để đạt được mục đích đó. Bởi lẽ, việc tùy tiện áp dụng BPNCTG sẽ dẫn tới nhiều hậu quả xấu, trong đó có sự xâm hại đến quyền của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc quy định phạm vi chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNCTG cần hạn chế để mỗi chủ thể quyết định áp dụng một cách thận trọng, khách quan và tuân thủ các quy định pháp luật. Điều này, đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra: “Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng BPNCTG đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các BPNCTG”.
Thực tế hiện nay ở nước ta, CQĐT ra lệnh tạm giam và đề nghị VKS xét phê chuẩn, tức là CQĐT không có thẩm quyền quyết định tạm giam. Tuy nhiên, vì CQĐT ra lệnh trước và sau đó VKS xét phê chuẩn đã làm cho xã hội hiểu rằng, VKS làm một việc đã rồi và thực tế có những trường hợp không cần thiết phải bắt tạm giam, tạm giam nhưng VKS vẫn phê chuẩn lệnh bắt tạm giam, lệnh tạm giam của CQĐT. Đồng thời thủ tục này vừa rườm rà, vừa gây tốn kém chi phí tố tụng (vừa có văn bản đề nghị VKS phê chuẩn kèm theo lệnh bắt để tạm giam hoặc lệnh tạm giam), vừa không phù hợp với xu hướng chung với thế giới.
Như vậy, thu hẹp người có thẩm quyền quyết định áp dụng BPNCTG là một xu thế tất yếu, tiến bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong TTHS, đặc biệt phù hợp với các tiêu chí quốc tế về QCN. Theo đó, giao thẩm quyền quyết định áp dụng BPNCTG cho Toà án. Cụ thể tăng quyền hạn tố tụng cho Thẩm phán, thì nên bỏ thẩm quyền tạm giam của những người giữ chức vụ trong Toà án và Thẩm phán đó không được tham gia xét xử đối với người bị áp dụng BPNCTG do chính mình đã ra quyết định tạm giam. Tuy nhiên, với mô hình thẩm vấn của Việt Nam và hệ thống tổ chức của Toà án của chúng ta hiện chưa có Toà chuyên trách (không xét xử) thì việc giao thẩm quyền áp dụng BPNCTG cần có lộ trình, thận trọng trên cơ sở đánh giá tổng kết quá trình thí điểm. Đồng nghĩa, phải có những thay đổi về cấu trúc trong hệ thống pháp luật. Đây là vấn đề lớn, khó khăn phức tạp nhưng sự thay đổi này là cần thiết trong tiến trình phát triển và hội nhập.
5. Quy định về đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự
Đối tượng bị áp dụng BPNCTG trong TTHS là người bị cáo buộc phạm tội, khi cơ quan/người có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự có cơ sở chứng minh rằng không tạm giam, đối tượng sẽ tiếp tục phạm tội hoặc cản trở hoạt động tố tụng và thỏa mãn các căn cứ áp dụng biện pháp này theo quy định của luật TTHS. Theo đó, không phải bất cứ NBBT nào cũng đều bị áp dụng BPNCTG, mà chỉ những đối tượng thoả mãn các căn cứ do pháp luật quy định và thấy cần thiết phải áp dụng BPNCTG.
Thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm đã chỉ ra những cơ sở để xem xét đối tượng có hành vi cản trở quá trình tố tụng như: dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, dựa vào đặc điểm của nhân thân người phạm tội, đó là những đối tượng lưu manh, côn đồ thì thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại, hoặc khai báo gian dối, quanh co, không thống nhất, những biểu hiện bất minh của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tài sản liên quan... Việc quy định rõ ràng, chặt chẽ các căn cứ, đối tượng sẽ góp phần làm hạn chế được các trường hợp áp dụng BPNCTG một cách tràn lan, vô căn cứ đối với mọi loại tội phạm làm hạn chế hay cản trở việc thực hiện các quyền công dân của người bị áp dụng BPNCTG, cụ thể:
Đối với người bị áp dụng BPNCTG là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì cho dù phạm loại tội gì cũng không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Tuy nhiên, họ có thể bị áp dụng BPNCTG nếu bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã, hoặc tiếp tục phạm tội, hay có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, đe dọa, trả thù người làm chứng, bị hại… hoặc tội phạm mà họ thực hiện là về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Việc quy định này đã thể hiện rất rõ nguyên tắc nhân đạo, tôn trọng và bảo đảm QCN nói chung, trong đó có quyền của phụ nữ và trẻ em nói riêng. Bởi vì, với những điều kiện sinh hoạt trong trại giam thì không thể đảm bảo được đầy đủ nhu cầu cần thiết của phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, cũng như người già yếu và người bị bệnh nặng. Do đó, chỉ trong những trường hợp thật cần thiết mới áp dụng BPNCTG đối với chủ thể này.
Tương tự như vậy, đối với người dưới 18 tuổi trong một vụ án hình sự, thì việc áp dụng BPNCTG đối với họ cũng phải được xem xét, cân nhắc kỹ và chỉ áp dụng khi thật cần thiết, đồng thời phải dựa trên những điều kiện cụ thể phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng này. Việc quy định những căn cứ và thủ tục áp dụng BPNCTG đối với người dưới 18 tuổi là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế đã quy định về quyền được hưởng tố tụng riêng cho đối tượng này. Bởi lẽ, người bị cáo buộc phạm tội họ mới chỉ là những người bị tình nghi phạm tội, do đó, họ phải tham gia vào một quá trình tố tụng đầy chất vấn, rất dễ bị tổn thương về thể chất và tinh thần cũng như những quyền lợi khác. Sự tổn thương càng nghiêm trọng khi đối tượng áp dụng đó lại là người dưới 18 tuổi, người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm thần. Điều này được tác giả Bùi Kiên Điện nghiên cứu và khẳng định: “Vấn đề áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng, nhất là tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội càng cần được cân nhắc một cách cẩn trọng tối đa. Cần chú ý là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng với các đối tượng trên có thể tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hình sự ở mức độ nhất định nhưng thường để lại vết hằn lớn khó xoá trong tâm trí các em suốt cuộc đời sau này”.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty Luật Minh Khuê