1.Huỷ bản án theo quyết định của Toà án là gì ?

>> Xem thêm: Chánh nhất là gì ? Cách thức tổ chức toà án theo Sắc lệnh số 13 do Chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 24/01/1946?

Trong việc thực hiện xét xử, không phải lúc nào những bản án hay quyết định của Tòa án cũng hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, không ít những bản án quyết định của tòa có những sai sót, gây oan sai, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Do đó, các quy định về hủy bỏ bản án quyết định của Tòa án khi có những sai sót là một biện pháp quan trọng góp phần hạn chế tình trạng oan, sai đối; nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp ở nước ta và xu thế phát triển chung của thời đại trong giai đoạn hiện nay.

Hủy bản án, quyết định của tòa án là việc Toà án có thẩm quyển ra quyết định bằng văn bản nhằm chấm dứt hiệu lực thi hành đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án cấp dưới khi phát hiện bản án, quyết định đó có sai sót.

2. Thẩm quyền huỷ bản án quyết định của Toà án

>> Xem thêm: Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài và phán quyết của trọng tài nước ngoài

Chỉ Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mới có thẩm quyền hủy bản án, quyết định của Tòa án.

– Tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ để điều tra lại hoặc xét xử lại và hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ vụ án.

+ Khi hủy án sơ thẩm để xét xử lại, Tòa án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ; cũng như, không quyết định trước về điều Khoản bộ luật và chế tài mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng.

+ Đối với trường hợp hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, nếu Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm thì ra quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo vô tội và đình chỉ vụ án

– Tòa án thực hiện giám đốc thẩm có thẩm quyền ra quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.

– Tòa án thực hiện tái thẩm có thẩm quyền ra quyết định hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra hoặc xét xử lại và hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để đình chỉ vụ án.

3. Khi nào được được hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại?

>> Xem thêm: Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài

Khoản 1, điều 358, Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

“Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp:

a) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;

b) Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;

c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.”

Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sợ thẩm để điều tra lại trong trường hợp nếu việc điểu tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.

Việc điều tra ở cấp sơ thẩm bao gồm cả việc điều tra ở giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm. Việc điều tra bị coi là không đầy đủ nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm không làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án (như các tình tiết buộc tội, gỡ tội hoặc các tình tiết có thể ảnh hưởng đên việc xác định tội danh, quyết định hình phạt đối với bị cáo...).

Tòa án cấp phúc thẩm chỉ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp nếu Viện kiểm sát cấp phúc thẩm không thể điều tra bổ sung được và ở tại phiên tòa phúc thẩm cũng không thể làm sáng tỏ được. Nếu việc điều tra ở cấp sơ thẩm tuy là không đầy đủ, nhưng có thể điều tra bổ sung được ở cấp phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm không hủy bản án sơ thẩm mà yêu cầu Viện kiểm sát cấp phúc thẩm điều tra bổ sung hoặc tự mình yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp thêm những tài liệu cần thiết.

Trong trường hợp cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm, hay có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố thì hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, vì trong trường hợp này, bản án có thể phản ánh không, không đầy đủ hoặc sai lệch so với sự việc đã diễn ra, các phán quyết của tòa sơ thẩm không hợp lý.

4. Khi nào được được hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại?

>> Xem thêm: Thủ tục xét đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài

Khi rơi vào các trường hợp đã được quy định tại khoản 2 điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Cụ thể:

“Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp:

a) Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;

b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;

c) Người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội;

d) Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ;

đ) Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này.”

Hội đồng xét xử sơ thẩm phải đúng theo sự quy định của pháp luật. Điều 254 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định “Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.”. Như vậy khi rơi vào trường hợp thành phần của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không đúng thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định có thể là một những trường hợp sau:

+ Hội đồng xét xử không đủ 05 thành viên khi xét xử bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình;

+ Trong thành phần Hội đồng xét xử không có hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên khi xét xử bị cáo là người chưa thành niên;

+ Thẩm phán hoặc Hội thẩm đã hết nhiệm kỳ nhưng chưa được tái bổ nhiệm;

+ Người không được bầu là Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử vụ án;

+ Thành viên của Hội đồng xét xử không phải là Thẩm phán hoặc Hội thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm

Vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng có thể là một trong những trường hợp sau đây:

+ Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án không đúng thẩm quyền (như Tòa án cấp huyện xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử cùa Tòa án cấp tỉnh; Tòa án nhân dân xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự...);

+ Vi phạm nghiêm trọng quyền bào chữa của bị cáo như Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; bị cáo bị xét xử về tội có khung hình phạt cao nhất quy định đến tử hình...

+ Xử vắng mặt bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo trong những trường hợp pháp luật không cho phép...

Có căn cứ cho rằng bị cáo (được Tòa án cẩp sơ thẩm tuyên bố không có tội) đã phạm tội, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Bị cáo phạm tội do vựợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phòng vệ chính đáng;

+ Tòa án cấp sơ thẩm đã tính nhầm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nên đã xác định hành vi của bị cáo đã quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên bị cáo không có tội;

+ Tòa án cấp sơ thẩm đã tính nhầm thời hạn xóa án tích hoặc thời hạn bị xử phạt hành chính nên cho rằng hành vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu thành tội phạm...

Ngoài ra, trong hai trường hợp bao gồm: miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ hoặc bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới.

5. Các trường hợp huỷ bản án sơ thẩm

>> Xem thêm: Phân tích hệ thống Tòa án tại Việt Nam và mối quan hệ giữa nhân dân với tòa án

Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định :

” Điều 358. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại

1. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp:

a) Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm;

b) Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;

c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố.

2. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp:

a) Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng thành phần mà Bộ luật này quy định;

b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm;

c) Người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội;

d) Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ;

đ) Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này.

3. Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.

4. Khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điểm, Khoản, điều của Bộ luật hình sự cần áp dụng và hình phạt đối với bị cáo.

5. Trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.”

Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sợ thẩm để điều tra lại trong trường hợp nếu việc điểu tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp nếu Viện kiểm sát cấp phúc thẩm không thể điều tra bổ sung được và ở tại phiên tòa phúc thẩm cũng không thể làm sáng tỏ được Việc điều tra bị coi là không đầy đủ nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án cấp sơ thẩm không làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án. Nếu việc điều tra ở cấp sơ thẩm tuy là không đầy đủ, nhưng có thể điều tra bổ sung được ở cấp phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm không hủy bản án sơ thẩm mà yêu cầu Viện kiểm sát cấp phúc thẩm điều tra bổ sung hoặc tự mình yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp thêm những tài liệu cần thiết.

Trong trường hợp Tòa án xét xử sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm, hay Tòa án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong các giai đoạn từ giai đoạn điều tra cho đến truy tố thì hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, vì trong trường hợp này, bản án có thể không phản ánh chính xác, không phản ánh đầy đủ hoặc sai lệch so với sự việc đã diễn ra, các phán quyết của tòa sơ thẩm không hợp lý.

“Điều 359. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án

1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 157 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.

2. Khi có một trong các căn cứ quy định tại các Khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.”

Hội đồng xét xử sơ thẩm phải đúng theo sự quy định của pháp luật tại Điều 254 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Khi rơi vào trường hợp thành phần của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không đúng thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

– Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định có thể là một những trường hợp sau:

+ Hội đồng xét xử không đủ 05 thành viên khi xét xử bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình;

+ Trong thành phần Hội đồng xét xử không có hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên khi xét xử bị cáo là người chưa thành niên;

+ Thẩm phán hoặc Hội thẩm đã hết nhiệm kỳ nhưng chưa được tái bổ nhiệm;

+ Người không được bầu là Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử vụ án;

+ Thành viên của Hội đồng xét xử không phải là Thẩm phán hoặc Hội thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm

– Vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng có thể là một trong những trường hợp sau đây:

+ Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án không đúng thẩm quyền (như Tòa án cấp huyện xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử cùa Tòa án cấp tỉnh; Tòa án nhân dân xét xử vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự…);

+ Vi phạm nghiêm trọng quyền bào chữa của bị cáo như Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; bị cáo bị xét xử về tội có khung hình phạt cao nhất quy định đến tử hình…

+ Xử vắng mặt bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo trong những trường hợp pháp luật không cho phép…

Có căn cứ cho rằng bị cáo (được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội) đã phạm tội, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Bị cáo phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phòng vệ chính đáng;

+ Tòa án cấp sơ thẩm đã tính nhầm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nên đã xác định hành vi của bị cáo đã quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên bị cáo không có tội;

+ Tòa án cấp sơ thẩm đã tính nhầm thời hạn xóa án tích hoặc thời hạn bị xử phạt hành chính nên cho rằng hành vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu thành tội phạm…

Ngoài ra, trong hai trường hợp bao gồm: miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối với bị cáo không có căn cứ hoặc bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê