Mục lục bài viết
1 Quy định chung của bộ luật dân sự về bảo lãnh tài sản của bên thứ ba?
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là loại hình bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của bên thứ ba, theo đó, tổ chức, cá nhân (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc doanh nghiệp nhà nước sử dụng tài sản được giao để trả nợ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ.
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba áp dụng trong trường hợp người có nghĩa vụ cần sự bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Trong quan hệ bảo đảm nghĩa vụ có bên bảo lãnh, xuất hiện hai quan hệ hợp đồng: quan hệ hợp đồng giữa bên bảo lãnh (bên thứ ba) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) và quan hệ hợp đồng giữa bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) với bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Việc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba được thực hiện bằng biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản.
Việc cầm cố, thế chấp để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh được áp dụng theo các quy định của pháp luật về cầm cố, thế chấp. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh gọi là hợp đồng bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.
Ở Việt Nam, các quy định của pháp luật về bảo lãnh có ở Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật về kinh tế - thương mại, tín dụng ngân hàng.
2 Chủ thể của bảo lãnh ?Bảo lãnh được thỏa thuận như thế nào?
Chương III Nghị định 21/2021/NĐ-CP
Điều 43. Thỏa thuận về bảo lãnh
1. Bên bảo lãnh có thể thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh về việc áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình.
2. Trường hợp bên bảo lãnh cam kết thực hiện công việc thay cho bên được bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với nghĩa vụ được bảo lãnh.
3. Thỏa thuận về bảo lãnh có thể được thể hiện bằng hợp đồng riêng về bảo lãnh, thư bảo lãnh hoặc hình thức cam kết bảo lãnh khác
Khác với cầm cố và thế chấp, trong bảo lãnh có xuất hiện thêm một chủ thể thứ ba ngoài bên có quyền và bên có nghĩa vụ, đó là bên bảo lãnh. Nếu tính chất bảo đảm trong cầm cố và thế chấp được gắn liền với tài sản bảo đảm thì trong quan hệ thế chấp tính chất bảo đảm được thể hiện thông qua sự cam kết thực hiện nghĩa vụ thay của người thứ ba đối với bên có quyền. Do vậy, biện pháp bảo lãnh làm xuất hiện các mối quan hệ sau đây:
-Về các mối quan hệ:
Quan hệ giữa A với B là quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh (được hình thành từ sự thoả thuận giữa A và B hoặc theo quy định của pháp luật), quan hệ giữa A với C là quan hệ bảo lãnh (được hình thành từ sự thoả thuận giữa A và C), quan hệ giữa c với B chỉ phát sinh khi C đã thay B thực hiện nghĩa vụ của B trước A (được gọi là nghĩa vụ hoàn lại).
-Về chủ thể:
+chủ thể của quan hệ bảo lãnh là A và C, trong đó A là bên nhận bảo lãnh, C là bên bảo lãnh ;
+chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là A và B, trong đó A là bên có quyền, B là bên có nghĩa vụ;
+ chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ hoàn lại là C( B có nghĩa vụ hoàn lại khi C đã thanh toán cho B) và trong đó C là bên có quyền, B là bên có nghĩa vụ.
-Quan hệ giữa A với B là quan hệ có nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng bảo lãnh (nên B đồng thời được gọi là bên được bảo lãnh); quan hệ giữa A với C là quan hệ bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của B; qụan hệ giữa C với B là quan hệ mà trong đó B phải hoàn trả cho c các lợi ích mà c đã thay B thực hiện cho A.
Như vậy, khi một biện pháp bảo lãnh được đặt ra thì ngoài các bên chủ thể trong quan hệ bảo lãnh là bên bảo lãnh (C) và bên nhận bảo lãnh (A), còn có một chủ thể liên quan là bên được bảo lãnh (B).
Bên được bảo lãnh luôn là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo lãnh đó. Họ có thể biết hoặc không biết về việc xác lập quan hệ bảo lãnh để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng đều phải hoàn trả cho bên bảo lãnh các lợi ích mà bên đó đã thay mình thực hiện.
3 .Đối tượng phạm vi bảo lãnh ?
Đối tượng bảo lãnh :
Đối tượng của bảo lãnh là các cam kết của người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh. Tuy nhiên để thực hiện được cam kết đó thì người bảo lãnh phải có tài sản hoặc công việc phù hợp để đáp lại lợi ích của bên nhận bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Lợi ích mà các bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ hướng tới là lợi ích vật chất. Vì vậy người bảo lãnh phải bằng một tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc thay cho người được bảo lãnh mới đảm bảo được quyền lợi cho người nhận bảo lãnh. Người bảo lãnh phải là người có khả năng thực hiện công việc đó.
Người bảo lãnh phải lấy tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho người nhận bảo lãnh xử lí.
Điều 336 bộ luật dân sự quy định về phạm vi bảo lãnh
1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
4 Thời điểm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ trước bên nhận bảo lãnh. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.
Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bắt đầu từ thời điểm nào thì người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó phải được xác định theo từng trường hợp cụ thể.
Khoản 1 Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 quy định bên bảo lãnh “sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Theo đó, thời điểm mà bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp sau:
– Khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh đến thời hạn thực hiện. Xác định việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời điểm này trong trường hợp các bên trong quan hệ bảo lãnh không có thỏa thuận khác về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy, trong trường hợp này, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ kể từ thời điểm bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đến hạn.
– Khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được xác định từ thời điểm có đủ căn cứ để xác định về việc bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.
5 Nghĩa vụ bảo lãnh của các bên ?
Đứng ra bảo lãnh cho bên kia vay nợ, nhưng khi trả nợ xong cho bên kia thì bên kia trốn, mất liên lạc?
Tại Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bảo lãnh như sau:
Điều 335. Bảo lãnh
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”.
Theo thông tin bạn đưa ra chúng tôi hiểu rằng bạn là người bảo lãnh để bên kia vay tiền của người khác. Theo đó nếu đến hết thời hạn trả nợ mà người vay nợ không trả nợ được thì người bảo lãnh phải trả nợ cho bên kia tùy theo thỏa thuận của các bên. Như vậy bạn đã đứng ra bảo lãnh thì sau khi bạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay bên kia thì hoàn toàn có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ trả nợ với mình nếu 2 bên có thỏa thuận trước về nghĩa vụ trả nợ của bên kia theo quy định của pháp luật như sau:
Điều 340. Quyền yêu cầu bên bảo lãnh
Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.
Theo đó, quan hệ về bảo lãnh được điều chỉnh theo quy định của Bộ luật dân sự. Vấn đề kiện bên kia về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xét căn cứ tại Bộ luật hình sự 2015. Như vậy nếu bạn muốn đòi lại tiền do đã thực hiện việc trả nợ cho bên kia theo hợp đồng bảo lãnh thì có thể kiện đòi lại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự. Bạn có thể kiện C về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có đủ các căn cứ theo quy định của Bộ luật hình sự, cơ quan điều tra sẽ xem xét các hành vi và dấu hiệu phạm tội để kết luận có khởi tố C về hành vi này hay không.
.
Mọi thắc mắc xin liên hệ với công ty Luật Minh Khuê chúng tôi : 1900.6162
Bộ phận tư vấn pháp luật - Công ty Luật Minh Khuê
Luật Minh Khuê xin cảm ơn !!