- 1. Khởi tố vụ án hình sự là gì?
- 2. Căn cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự trong BLTTHS 2003
- 3. Căn cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự trong BLTTHS 2015
- 4. BLTTHS 2015 bổ sung căn cứ khởi tố và căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
- 5. Phân tích các căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS 2015
1. Khởi tố vụ án hình sự là gì?
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, xác định có hay không dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, là cơ sở để chấm dứt hoạt động tố tụng hình sự hay thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
2. Căn cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự trong BLTTHS 2003
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 được quy định tại Điều 100. Theo đó:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
- Tố giác của công dân;
- Tin báo của cơ quan, tổ chức;
- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
- Người phạm tội tự thú.
Điều 107 quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
3. Căn cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự trong BLTTHS 2015
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được quy định tại Điều 143 như sau:
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
- Tố giác của cá nhân;
- Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
- Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
- Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
- Người phạm tội tự thú.
Điều 157 quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
>> Tham khảo: Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và trình tự khởi tố vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
4. BLTTHS 2015 bổ sung căn cứ khởi tố và căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
Để khởi tố vụ án hình sự, pháp luật nước ta cũng như các nước chỉ yêu cầu xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm mà chưa yêu cầu phải xác định được người phạm tội. Khởi tố vụ án và khởi tố bị can là hai giai đoạn khác nhau của tố tụng. Khởi tố vụ án có thể giao cho nhiều cơ quan thực hiện (Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án); nhưng do khởi tố bị can đụng chạm trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm, địa vị pháp lý của một con người cụ thể nên pháp luật quy định rất chặt chẽ cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can.
Mặc dù khởi tố vụ án hình sự chưa liên quan trực tiếp đến một con người cụ thể, nhưng với việc ban hành quyết định này cũng làm phát sinh trách nhiệm của nhiều tổ chức, cá nhân hữu quan nên cùng với việc tiếp tục kế thừa các quy định hiện hành, Bộ luật bổ sung và quy định chặt chẽ chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm, việc xác định dấu hiệu tội phạm phải dựa trên các căn cứ gồm: tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú (Điều 143). Việc kế thừa và bổ sung các quy định này nhằm bảo đảm tính toàn diện của căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời, nhằm đề cao trách nhiệm của cơ quan kiến nghị khởi tố, tạo thuận lợi cho hoạt động xác minh nguồn tin về tội phạm, Bộ luật bổ sung quy định: khi kiến nghị khởi tố cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan (Điều 144).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (tại Điều 105) về khởi tố theo yêu cầu của bị hại quy định rõ: Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại; trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ. Tuy nhiên, trong quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự (tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) lại thiếu căn cứ: Đối với những tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật này mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố. Để bảo đảm sự đồng bộ của pháp luật, tránh nhận thức thiếu thống nhất và thuận tiện cho thực tiễn áp dụng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung vào hệ thống những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự căn cứ nêu trên (Điều 157). Đây là nội dung cần chú ý trong thực tiễn thực hiện; khi phát hiện vụ việc thuộc trường hợp nêu trên thì phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải đình chỉ việc giải quyết nhằm bảo đảm đúng quy định của luật.
5. Phân tích các căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS 2015
Theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, căn cứ khởi tố vụ án hình sự bao gồm:
Thứ nhất, tố giác của cá nhân
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tố giác của cá nhân được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đường điện thoại, thư tín… và có thể được thể hiện bằng lời hoặc bằng văn bản. Mọi người đều có quyền tố giác về tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Đây là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xác minh có hay không có sự việc phạm tội xảy ra. Việc khởi tố vụ án hình sự căn cứ vào tố giác của cá nhân chỉ được được thực hiện sau khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác điều tra, xác minh và xác định đã có sự việc phạm tội xảy ra đúng theo nội dung của tố giác.
Tuy nhiên, nếu người nào cố ý tố giác sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Thứ hai, tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân
Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền. Khi nhận được thông tin về tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo, thì cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xác minh. Nếu qua xác minh thấy vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự thì sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng
Phương tiện thông tin đại chúng là phương tiện thông tin có đối tượng tác động là đông đảo người dân như báo chí in, đài tuyền hình, đài phát thanh,…
Khi có được thông tin về tội phạm do các phương tiện thông tin đại chúng đưa, thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra, xác minh để kết luận có dấu hiệu tội phạm hay không, làm căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyết xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Cùng với các nguồn tin khác, kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước là nguồn tin để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ năm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm
Đây là trường hợp Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm thông qua quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và dùng đó làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện sự việc nào đó có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa được khởi tố
Thứ sáu, người phạm tội tự thú
Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.
Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội và họ tự mình ra thú nhận hành vi phạm tội của họ trước các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Việc thú nhận hành vi phạm tội của người phạm tội trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện là cơ sở để đánh giá có thể có sự việc phạm tội xảy ra và khả năng người tự thú là người thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, từ lời khai của người phạm tội tự thú cũng là cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)