Mục lục bài viết
1. Bốc bát họ có phạm pháp không?
>> Luật sư tư vấn quy định pháp luật về cho vay nặng lãi, gọi ngay: 1900.6162
Luật sư trả lời:
Từ những thông tin mà anh đã chia sẻ Luật sư nhận thấy đây là một hình thức cho vay nặng lãi căn cứ theo Điều 201 Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định như sau:
Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Từ thực tế mà anh đã vay và nhận số tiền 8 triệu mà thực tế là vay 10 triệu với mức lãi suất cao ngất ngưởng, cao hơn nhiều lần so với mức lãi suất của Ngân hàng nhà nước. Thực chất hoạt động vay tiền của anh là giao dịch dân sự nên hai bên có thể tự thỏa thuận song thỏa thuận của anh và người cho vay không được trái với quy định của pháp luật Việt Nam. Rõ ràng anh và người cho vay đã thỏa thuận với mức lãi suất trái với quy định pháp luật nên giao dịch vay nợ không có giá trị pháp lý và ở trường hợp này người cho anh vay tiền có thể bị truy tố hình sự quy định tại Điều 201 Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự.
2. Tội cho vay nặng lãi theo quy định pháp luật hình sự?
>> Luật sư tư vấn xử lý hành vi cho vay nặng lãi, gọi số: 1900.6162
Luật sư trả lời:
Thứ nhất: Thực tế việc người em vay tiền bên ngoài là một dạng giao dịch dân sự nên có vay phải có trả nhưng phải trả ở một mức độ nào đấy mà vẫn thuộc giao dịch dân sự chứ không bị hình sự hóa thì còn phải căn cứ vào mức lãi suất cho vay như thế nào. Trường hợp này nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất cho vay như thế nào thì có thể thỏa thuận lại nhưng mức lãi suất không vượt quá 20% một năm của khoản tiền vay theo Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
"Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ."
Thứ hai: Khi bên cho vay đến ép viết giấy nợ với số tiền là 20.000.000 đồng. Luật sư không rõ bên gia đình đã ký giấy vay nợ hay chưa. Nếu đã ký thì có thể gửi yêu cầu lên Tòa án để tuyên giấy vay nợ vô hiệu do bị ép buộc. Theo nguyên tắc thực hiện giao dịch dân sự phải đảm bảo được yếu tố tự nguyện thực hiện giao dịch nên giấy vay nợ này bị vô hiệu do vi phạm nguyên tắc giao kết giao dịch dân sự theo Điều 127 Bộ luật hình sự năm 2015.
"Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình."
Vậy nên trong trường hợp nếu gia đình mình đã ký vào giấy vay nợ thì vẫn có căn cứ để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị cưỡng ép, mình sẽ không phải trả số tiền 20 triệu mà chỉ trả 400.000 đồng cùng với mức lãi suất theo quy định của pháp luật dân sự.
Còn trong trường khác mình có thể yêu cầu khởi tố hình sự đối với bên cho vay về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự theo Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017.
"Điều 201. Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự
1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm."
3. Quy định về hình phạt đối với hành vi cho vay nặng lãi?
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Trả lời:
Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản:
Điều 463. Hợp đồng vay tài sảnHợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Theo như thỏa thuận, bạn đã giao kết hợp đồng vay tiền không có lãi. Khi đến hạn, bạn đã trả nợ đầy đủ, đồng thời các bên đã lập văn bản xác nhận việc hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Như vậy hợp đồng đã hoàn thành. Bạn không còn bất kỳ nghĩa vụ nào khác đối với hợp đồng vay tiền, bên cho vay cũng không có quyền yêu cầu bạn thực hiện bất cứ một nghĩa vụ tài sản nào khác.
Tuy nhiên, sau khi chấm dứt hợp đồng, một số đối tượng đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực nhằm ép bạn phải trả khoản tiền lãi không được thỏa thuận trong hợp đồng. Hành vi này là trái pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản. Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định:
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp;c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;e) Tái phạm nguy hiểm.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trong trường hợp của bạn, có người đã thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực ép bạn trả tiền, bạn có quyền yêu cầu cơ quan công an áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe, tài sản của bạn, đồng thời khởi tố vụ án cưỡng đoạt tài sản nhằm xử lý nghiêm minh hành vi trái pháp luật.
>> Tham khảo dịch vụ pháp lý liên quan: Luật sư tư vấn, tranh tụng trong lĩnh vực hình sự;
4. Bị bên cho vay nặng lãi thuê người đánh thì cần xử lý như thế nào?
Chào luật sư tôi tên Đ năm nay 23 tuổi hiện tại tôi có vay của a C với số tiền là 11 triệu đồng trong đó ba triệu là tiền tôi báo lô cho anh chinh và 8 triệu đồng là tôi vay có để lại hai chiếc điện thoại oppo để làm tin khi tôi vay a ấy k nói cho tôi biết là lãi là bao nhiêu một ngày đến tháng tôi vẫn trả số tiền lãi mà a C đưa ra tổng cả tiền lô là 55nghin đồng 1ngay như vây là 1 tháng tôi phải trả là 1trieu800nghin được vài tháng tôi không có tiền để trả lãi nữa và Anh ấy đã thuê người tìm tôi và đánh tôi.
Vậy luật sư cho tôi hỏi là a chinh có bị kết tội là cho vay nặng lãi và thuê người đòi nợ đánh tôi không ạ. Xin cám ơn luật sư.
>> Luật sư tư vấn xử lý hành vi đòi nợ thuế, gọi số: 1900.6162
Luật sư trả lời:
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.
Đe doạ sẽ dùng vũ lực là việc sử dụng lời nói hoặc hành động làm cho người bị đe doạ sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị đánh đập tra khảo, bị đau đớn về thể xác…
Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định Tội cưỡng đoạt tài sản như sau:
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mức lãi suất cho vay như sau:
"1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác".
Như vậy, khi có tranh chấp xảy ra thì pháp luật không bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.
Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định về Tội cho vay nặng lãi như sau:
''1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.''
Theo quy định của Điều luật trên, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:
+ Lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật dâ sự quy định từ năm lần trở lên. Theo quy định của khoản 1 Điều 468 Bộ Luật Dân sự về lãi suất thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, nếu lãi suất cho vay gấp 5 lần mức lãi suất này thì có dấu hiệu của tội cho vay nặng lãi.
+ Có tính chất chuyên bóc lột được hiểu là người phạm tội lợi dụng việc cho vay, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn cấp bách của người đi vay để cho vay với lãi suất cao (lãi nặng) nhằm thu lợi bất chính (30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm) mà thực chất là bóc lột người đi vay. Tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay nặng lãi nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Với trường hợp của bạn, bạn vay nợ với số tiền 11.000.000 đồng, bạn không nói rõ là có làm hợp đồng hay giấy tờ gì không, và trong hợp đồng vay nợ có quy định về mức lãi suất hay không, mặc dù bạn bảo là không viết giấy nợ, anh C trên luật pháp không thể khởi kiện đòi tiền anh, trường hợp vay 11.000.000 đồng, tiền gốc và lãi suất tháng mà anh C yêu cầu anh trả là 1.800.000 đồng, theo pháp luật quy định, lãi suất tối đa không vượt quá 1,67% /tháng, và thỏa thuận sẽ không quá 5 lần 1,67%.
Bạn cũng không cung cấp thông tin bên anh C yêu cầu anh phải trả tiền gốc hàng tháng là bao nhiêu để tính được số lãi anh phải trả có vượt mức hay không, nên không thể biết anh C có bị ghép vào tội cho vay nặng lãi hay không. Cũng không có căn cứ để tố cáo hành vi gá cược lô đề, nếu bạn không có bằng chứng cụ thể chứng minh anh C ghi lô đề cho bạn.
Trường hợp này bạn chỉ có thể tố cáo anh C nếu anh C có hành vi đe dọa, cố ý gây thương tích cho anh, có bằng chứng chứng minh.
Theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 quy định về Tội đe dọa giết người như sau:
Điều 133. Tội đe dọa giết người
1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.
Trường hợp này cần cung cấp đầy đủ thông tin cho cơ quan công an để cơ quan điều tra làm rõ vụ việc.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp.