1. Phát hành cổ phần là gì?

Quy trình phát hành chứng khoán có thể hình dung qua tiến trình như sau: chào bán cổ phần, bán cổ phần và mua cổ phần.
 

2. Chào bán cổ phần là gì?

Chào bán cổ phần là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán các cổ phần đó trong quá trình hoạt động để tăng vốn điều lệ.
Về mặt quy trình, để có thể tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán, công ty phải họp Đại hội đồng cổ đông và ra nghị quyết về vấn đề này.

Các hình thức chào bán cổ phần trong công ty cổ phần là như thế nào?

 Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, gọi: 1900.6162

 

3. Hình thức chào bán cổ phần:

Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020, chào bán cổ phần có thể thực hiện theo một trong các hình thức sau đây:
- Chào bán cho các cổ đông hiện hữu;
- Chào bán ra công chúng;
- Chào bán cổ phần riêng lẻ.
Trong đó, luật không quy định hình thức chào bán ra công chúng mà dẫn chiếu sang luật chứng khoán. Như vậy, đối với chào bán cổ phần theo Luật doanh nghiệp năm 2020, các doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán có thể thực hiện thông qua hai hình thức là: (i) Chào bán cho các cổ đông hiện hữu và (ii) Chào bán cổ phần riêng lẻ.
Chào bán cho các cổ đông hiện hữu:
Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu là trường hợp công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán toàn bộ số cổ phần đó cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty.
Khi thực hiện việc chào bán cổ phần cho các cổ đông hiện hữu của công ty, công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú hoặc địa chỉ liên lạc của họ trong sổ đăng ký cổ đông chậm nhất 15 ngày trước ngày kết thúc thời hạn đăng ký mua cổ phần. Nội dung của thông báo phải bảo đảm các nội dung:
Khi thực hiện việc chào bán cổ phần cho các cổ đông hiện hữu của công ty, công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú hoặc địa chỉ liên lạc của họ trong sổ đăng ký cổ đông chậm nhất 15 ngày trước ngày kết thúc thời hạn đăng ký mua cổ phần. Nội dung của thông báo phải bảo đảm các nội dung:
  • Tên của cổ đông;
  • Tổng số cổ phần dự kiến chào bán và sổ cổ phần cổ đông được quyền mua;
  • Giá chào bán cổ phần;
  • Thời hạn đãng ký mua.
Trường hợp phiếu đăng ký mua cổ phần không được gửi về công ty đúng hạn như thông báo thì cổ đông coi như đã không nhận quyền ưu tiên mua. Tuy nhiên, khi cổ đông không có nhu cầu mua cổ phần, họ vẫn có quyền chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của mình cho người khác.
 

4. Chuyển nhượng quyền mua cổ phần

"Năm 2007, Nhà nước có chủ trương thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Cán bộ, công chức trong tập đoàn sẽ được mua cổ phần ưu đãi, số cổ phần được mua được xác định dựa trên thâm niên công tác.
Theo đó, ông A có mua từ bà T một bộ hồ sơ quyền mua cổ phần theo năm công tác đứng tên ông Đ với giá 110.000.000 đồng tiền chênh lệch.
Sau đó, ông A thay mặt ông Đ nộp tiền mua 4.800 cổ phần của Ngân hàng tương ứng với số tiền là 48.480.000 đồng. Sau đó, có thông báo là Ngân hàng không được thành lập nên ông A đã được nhận lại số tiền 48.480.000 đồng. Tuy nhiên, số tiền chênh lệch 110.000.000 đồng bà T không đồng ý trà cho ông A.
Tại phiên tòa bà T khai, năm 2007, bà có mua của bà Tr hợp đồng chuyển nhượng quyền mua cổ phần cùa Ngân hàng Dầu khí mang tên Đ với giá là 100.700.000 đồng và bán lại cho ông A với giá là 110.000.000 đồng.
Do đó, bà T yêu cầu bà Tr trả cho bà số tiền 100.700.000 đồng để bà trả cho ông A.

Trong khi đó, bà Tr trình bày, năm 2007, bà trực tiếp mua bộ hồ sơ quyền mua cổ phiếu ưu đãi của Ngân hàng Dầu khí từ ông Đ với giá 96.900.000 đồng. Sau đó, bà đã bán cho bà T với giá là 100.700.000 đồng. Và tiếp theo, bà T bán cho ai thì bà Tr không biết.

Trong khi đó, bà Tr trình bày, năm 2007, bà trực tiếp mua bộ hồ sơ quyền mua cổ phiếu ưu đãi của Ngân hàng Dầu khí từ ông Đ với giá 96.900.000 đồng. Sau đó, bà đã bán cho bà T với giá là 100.700.000 đồng. Và tiếp theo, bà T bán cho ai thì bà Tr không biết
Ông Đ trình bày: ông công tác 19 năm trong ngành Dầu khí. Do đó, khi vợ chồng bà Tr đề xuất ông bán với giá là 5.100.000 đồng/năm công tác, với tổng số tiền là 96.900.000 đồng, hai bên đồng ý thỏa thuận mua đứt bán đoạn, mọi thủ tục vợ chồng bà Tr làm hết, ông Đ chi việc ký. Vì thế, ông không đồng ý trả lại 96.900.000 đồng cho bà Tr vì việc mua bán này hai bên đã thỏa thuận mua đứt bán đoạn, nên việc sau này cổ phiếu có được phát hành hay không thì ông cũng không phải trả lại tiền.
Nguồn: Trích và biên tập lại từ Bản án sổ 139/2012/KDTM-PT ngày 16-4-2012 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền mua cổ phiếu của Tòa phúc thẩm tại Thành phố H.."
Các vấn đề đặt ra:
- Quyền ưu tiên mua cổ phần khi cổ phần hóa
- Chuyển nhượng quyền ưu tiên mua
Trên thực tế, ưanh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền mua cổ phiếu không phài là ít. Chúng ta có thể thấy dạng tranh chấp này trong hàng loạt các dự án cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, thậm chí là quá trình chuyển đổi mô hình doanh nghiệp từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần.
Mặc dù thực tế người ta hay sử dụng khái niệm quyền ưu tiên mua cổ phần, tuy nhiên về bản chất quyền này hoàn toàn khác với quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông tại Luật doanh nghiệp năm 2020 bởi lẽ: Quyền ưu tiên mua cổ phần là quyền dành cho cổ đông của công ty. Quyền này gắn liền với sự tồn tại của một công ty cổ phần.
Trong khi đó, quyền ưu tiên mua cổ phần của ông D bản chất là một quy định mang tính khuyến khích, ghi nhận sự đóng góp của người lao động. Mục đích của chính sách “ưu tiên” này nhằm tạo sự gắn kết giữa người lao động và đơn vị sử dụng lao động. Quyền ưu tiên này hình thành dựa trên quyết định mang tính đơn phương của đơn vị sử dụng lao động. Quyền này không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp.
Ngân hàng Dầu khí không được thành lập, quyền ưu tiên của ông Đ không phải là quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông. Vì quyền ưu tiên này là chính sách của doanh nghiệp dành cho nhân viên và người lao động của mình, nó không phải là hình thức chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu theo pháp luật về doanh nghiệp. Do đó, người lao động của doanh nghiệp, mà cụ thể là ông Đ có thể chấp nhận mua hoặc có quyền từ chối. Đồng thời, ông không thể chuyển nhượng quyền ưu tiên mua cho người khác giống như quyền ưu tiên mua cùa cổ đông được.
 

5. Chào bán cố phần riêng lẻ

So với việc chào bán cổ phần cho các cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ cổ phần của họ, việc chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty cổ phần mang tính tự do hơn. Theo đó, chỉ cần công ty ra quyết định về việc phát hành cổ phần riêng lẻ và có thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Cụ thể, quy trình này phải trải qua hai bước sau:
Bước thứ nhất: Họp Đại hội đồng cổ đông và Đại hội đồng cổ đông của công ty phải:
- Ra nghị quyết về chào bán cổ phần riêng lẻ;
- Thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ (nếu có).
Nội dung của phương án chào bán này có thể là xác định đối tượng có quyền mua cổ phần, các loại cổ phần, tỷ lệ được mua.
Bước thứ hai: Thông báo việc chào bán cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định chào bán cổ phần riêng lẻ, công ty phải thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Kèm theo thông báo chào bán cổ phần riêng lẻ phải có nghị quyết đã được thông qua trong bước thứ nhất.
 

5.1 Bán cổ phần

Dù là chào bán cổ phần theo hình thức nào thì chung quy lại, Hội đồng quản trị vẫn là cơ quan quyết định thời điểm, phương thức và giá bán cổ phần.
Nguyên tắc xác định giá bán cổ phần: giá bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất. Tuy vậy, nguyên tắc này vẫn có những ngoại lệ. Cụ thể là những trường hợp sau đây:
- Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập;
- Cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty;
- Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác;
- Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác;
- Trường hợp khác do Điều lệ quy định.
 

5.2 Mua cổ phần

Bàn chất của việc mua cổ phần từ công ty phát hành là hành vi góp vốn. Do đó, chủ thể mua phải đáp ứng các điều kiện của người góp vốn vào công ty.
Ngoài ra, đối với những loại cổ phần ưu đãi, pháp luật về doanh nghiệp còn cho phép Đại hội đồng cổ đông xác định đối tượng nào có quyền mua cổ phần ưu đãi. Ví dụ trên thực tế, các doanh nghiệp thường dành quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức cho người lao động trong doanh nghiệp nhằm tạo nên sự gắn kết giữa người lao động và công ty. Trong trường hợp này, nếu không phải là người lao động cùa doanh nghiệp thì không có quyền mua, mặc dù họ không phải là đối tượng bị cấm góp vốn theo pháp luật về doanh nghiệp.
cổ phần của công ty cổ phần có thể được mua bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty và phải được thanh toán đủ một lần. Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến việc chào bán cổ phần, chuyển nhượng cổ phần trong công ty, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp trực tuyến.