- 1.Các nguyên tắc của luật quốc tế và các nguyên tắc chung của pháp luật
- 2.Lex mercatoria (‘Thương nhân luật’)
- 3. Pháp luật quốc gia của nước không có liên quan đến các bên
- 4.Các tiêu chí cơ bản khi áp dụng pháp luật nước ngoài trong hệ thống tư pháp Việt Nam
- 5. Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài trong hệ thống tư pháp tại Việt Nam
1.Các nguyên tắc của luật quốc tế và các nguyên tắc chung của pháp luật
Khái niệm Luật Quốc tế
Sở dĩ gọi một số nguyên tắc của Luật quốc tế là những nguyên tắc cơ bản bởi vì trong hệ thống luật quốc tế tồn tại nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ liên quốc gia ở phạm vi toàn cầu, đồng thời lại có cả những nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các nước cùng khu vực và nguyên tắc điều chỉnh quan hệ trong từng ngành luật cụ thể của hệ thống luật quốc tế.
Trong các nguyên tắc này thì hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là những nguyên tắc thể hiện tập trung nhất các quan điểm chính trị – pháp lý và cách xử sự của các quốc gia trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của đời sống quốc tế.
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ thể Luật quốc tế. Trong Luật quốc tế, các nguyên tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus cogens được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Cần phải đề cập đến những trường hợp, mặc dù không thường xuyên xảy ra, khi các bên dẫn chiếu đến các nguyên tắc của luật quốc tế hoặc các nguyên tắc chung của pháp luật. Các nguồn luật này được sử dụng nhằm giới hạn phạm vi áp dụng hệ thống pháp luật quốc gia, hoặc để bổ sung những nội dung chưa được pháp luật quốc gia điều chỉnh.
2.Lex mercatoria (‘Thương nhân luật’)
Lex mercatoria có thể hiểu là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm và chuẩn mực của pháp luật xuyên quốc gia, được hình thành từ tập quán và thực tiễn thương mại quốc tế, hoặc nói cách khác, từ luật tập quán thương mại. Lex mercatoria không dựa trên bất kì hệ thống pháp luật nào, mà là tập hợp các quy định thương mại quốc tế, các nguyên tắc chung của pháp luật, các chuẩn mực và tập quán thương mại. Một ví dụ về lex mercatoria hiện đại là PICC của UNIDROIT . Các nguyên tắc này không phải là ‘luật’ theo đúng nghĩa của nó, bởi vì chúng không được bất kì nước nào thông qua như là luật. Nhưng trên thực tế, những nguyên tắc này là quy tắc điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế. Lex mercatoria cũng bao gồm các quy tắc khác, ví dụ, UCP 600 của ICC , là những quy tắc điều chỉnh gần như toàn bộ tín dụng thư; và INCOTERMS của ICC là những điều kiện giao hàng cơ sở trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, ví dụ, điều kiện FOB và điều kiện CIF .Một số nhà bình luận còn đưa vào phạm vi của lex mercatoria các phán quyết trọng tài quốc tế cũng như các nguyên tắc phái sinh từ các công ước quốc tế hoặc công pháp quốc tế. Mặc dù lex mercatoria không phải là ‘luật’, nhưng nó sẽ được chấp nhận để điều chỉnh tố tụng trọng tài nếu các bên thoả thuận lựa chọn nó. Tuy nhiên, cũng cần phải ghi nhận rằng nhiều luật sư kiên quyết chống lại việc dẫn chiếu lex mercatoria khi họ soạn thảo các hợp đồng thương mại quốc tế giữa các bên tư nhân, bởi vì thông thường, các bên muốn luật áp dụng phải là luật có thể tiếp cận được, rõ ràng và xác định được, để có thể cung cấp cho các bên một khuôn khổ pháp luật chắc chắn. Chính các trọng tài viên, khi sử dụng một số quy định xuyên quốc gia, cũng ngần ngại khi dựa trên lex mercatoria. Tuy nhiên, cũng có những tình huống, mà lex mercatoria được thể hiện là rất hữu ích.
3. Pháp luật quốc gia của nước không có liên quan đến các bên
Nếu các bên không thoả thuận được về việc chọn luật quốc gia của một trong các bên, và nếu họ không muốn chọn các nguyên tắc chung của pháp luật, thì có thể có một sự lựa chọn khác - đó là chọn pháp luật của một nước trung lập, là nước không có mối liên hệ đặc biệt nào với bất kì bên nào. Các bên có thể muốn chọn luật của nước nào đó rất phát triển ở lĩnh vực nhất định, hoặc đơn giản là muốn chọn luật của nước mà ở đó có nhiều giao dịch quốc tế diễn ra. Một số công ước quốc tế ủng hộ quyền tự do của các bên trong việc lựa chọn luật áp dụng đối với trọng tài. Tuy nhiên, quyền tự do của các bên bị giới hạn bởi các quy phạm mệnh lệnh (các quy phạm mà các bên không thể không tuân thủ) và chính sách công cộng của một quốc gia. Ở Hoa Kỳ, các bên không có quyền tự do lựa chọn luật áp dụng bất kì. Cần thiết phải có mối quan hệ thực chất giữa một bên hoặc giao dịch với luật được chọn, hoặc cần phải có cơ sở hợp lí cho sự lựa chọn của các bên (xem The Restatements (Second) of Conflict of Laws). Như vậy, toà án sẽ không công nhận luật của bang Phờ-lo-ri-đa là luật áp dụng để điều chỉnh giao dịch giữa một công ty Đức và một công ty Nhật, nếu giao dịch này không có liên hệ nào với bang Phờ-lo-ri-đa. Nhưng luật của bang Niu Y-oóc lại là trường hợp đặc biệt. Toà án bang Niu Y-oóc sẽ chấp nhận sự lựa chọn luật Niu Y-oóc bởi các bên trong những điều kiện nhất định, ngay cả khi không có mối liên hệ hợp lí nào với bang này. Hợp đồng (mà toà án bang Niu Y-oóc xem xét) không được liên quan đến nhân sự hoặc dịch vụ tại nhà, hoặc lao động, và trị giá hợp đồng phải ít nhất là 250.000 USD. Hơn nữa, nếu luật bang Niu Y-oóc là luật điều chỉnh hợp đồng, thì toà án bang Niu Yoóc sẽ có thẩm quyền xét xử đối với cá nhân, và không thể từ chối thụ lí vì lí do ‘toà án không thích hợp’ (‘forum non conveniens’), nếu trị giá hợp đồng ít nhất là 1.000.000 USD. Bằng việc tạo thuận lợi cho các bên có những giao dịch hợp đồng trị giá lớn có thể tiếp cận hệ thống pháp luật và toà án của mình, Niu Y-oóc rõ ràng là muốn cố gắng bảo toàn và tăng cường uy tín của mình như là một trung tâm kinh doanh toàn cầu.
4.Các tiêu chí cơ bản khi áp dụng pháp luật nước ngoài trong hệ thống tư pháp Việt Nam
Áp dụng luật nước ngoài là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế giới. Song việc áp dụng luật nước ngoài phải đáp ứng một số tiêu chí cơ bản sau:
Các cơ quan tư pháp có thẩm quyền cần áp dụng luật nước ngoài một cách thiện chí và đầy đủ. Điều này được hiểu là áp dụng cả hệ thống luật nước ngoài được viện dẫn , hệ thống luật nước ngoài được cơ cấu như thế nào, bằng những loại nguồn pháp luật nào đều phải được áp dụng mà không được loại bỏ một cách tùy tiện;
Pháp luật nước ngoài phải được giải thích và thực thi về nội dung như ở chính nước nơi đó ban hành;
Cơ quan tư pháp có thẩm quyền và cơ quan xét xử có nhiệm vụ tìm hiểu và xác định nội dung qua nghiên cứu văn bản pháp luật, qua thực tiễn hành pháp, tư pháp , tập quán , tài liệu… của nước hữu quan. Ngoài ra, có thể thông qua con đường ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự ở nước ngoài của nhà nước mình, cũng như thông qua các tổ chức tư vấn, công ty luật hoặc cơ quan nghiên cứu pháp lý để tìm hiểu luật nước ngoài một cách tốt nhất phục vụ cho việc xét xử. Các bên đương sự trong vụ việc cũng có quyền và trách nhiệm minh chứng, viện dẫn giải thích, vận dụng trước cơ quan xét xử để xác định nội dung đích thực của luật nước ngoài để bảo vệ lợi ích của mình.
5. Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài trong hệ thống tư pháp tại Việt Nam
Ở Việt Nam, để đảm bảo lợi ích của các bên đương sự một cách chính đáng và giữ gìn trật tự pháp luật của Nhà nước, các cơ quan tư pháp và tòa án có trách nhiệm tìm hiểu nội dung đích thực của luật pháp nước ngoài cần áp dụng như nghiên cứu luật nước ngoài, thực tiễn tòa án xét xử của họ, tập quán luật, thông lệ, án lệ và các tài liệu pháp lý trong và ngoài nước của các viện nghiên cứu….
Trong quá trình tố tụng các bên đương sự cũng có quyền đưa ra các bằng chứng về luật nước ngoài trước tòa để bảo vệ quyền lợi ích của mình, song việc xác định nội dung luật nước ngoài vẫn là nhiệm vụ chính của cơ quan xét xử thông qua hình thức tòa án hoặc trọng tài và các cơ quan này phải có cơ sở xác đáng để quyết định nội dung pháp luật phù hợp để sử dụng.
Trong trường hợp đã sử dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn không thể xác định được nội dung luật nước ngoài thì tòa án phải áp dụng nguyên tắc xét xử luật tòa án để giải quyết vụ kiện. Đây là cách duy nhất và cuối cùng để đáp ứng yêu cầu giải quyết kịp thời các tranh chấp dân sự quốc tế.
Thể thức và xác định nội dung luật nước ngoài cần áp dụng trong tư pháp quốc tế Việt Nam
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ áp dụng luật nước ngoài khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới.
Quy phạm xung đột có thể là quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam và quy phạm xung đột cũng có thể là trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong trường hợp quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế và quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam cùng điều chỉnh một quan hệ hoặc một nhóm quan hệ nhất định thì sẽ ưu tiên thi hành quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế Việt nam tham gia.
Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu tới luật pháp nước ngoài có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó không ngoại trừ luật nội dung, luật xung đột hay luật hình thức….Như vậy, khi áp dụng luật nước ngoài là áp dụng toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài nên nó phải được giải thích , xác định nội dung và áp dụng toàn bộ để giải quyết vụ việc đúng như ở nước đã ban hành. Có thể nói đây là điều kiện kiên quyết để bảo hộ một cách thiết thực quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân và pháp nhân của nước mình khi các quan hệ pháp luật liên quan đó đã phát sinh ở nước ngoài.
Về thực chất, đây là một vấn đề rất phức tạp và nó cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan ở các nước về áp dụng luật nước ngoài. Yếu tố chủ quan đó là quan điểm, trường phái, là chính sách của nhà nước hiện hành. Yếu tố khách quan là cơ sở vật chất, là khả năng thực tế của các cơ quan thi hành, thực thi pháp luật của mỗi quốc gia.
Ở nước ta cơ quan tư pháp và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác chỉ được áp dụng luật nước ngoài khi có quy phạm xung đột trong luật pháp Việt Nam và các điều ước của Việt Nam viện dẫn tới luật của nước ngoài đó.
Luật Minh Khuê ( sưu tầm và biên tập)