Mục lục bài viết
- 1. Nguyên tắc bình đẳng vể chủ quyền giữa các quốc gia
- 2. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực
- 3. Nguyên tác hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
- 4. Nguyên tắc không can thiệp vào cóng việc nội bộ của quốc gia khác
- 5. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác
- 6. Nguyên tác đân tộc tự quyết
- 7. Nguyên tác tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda)
1. Nguyên tắc bình đẳng vể chủ quyền giữa các quốc gia
Chủ quyền là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời của quốc gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi ỉãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tê.
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia thực hiên quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, thông qua những quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhưng phải trên cơ sở ý chí chủ quyền của nhân dân.
Trong quan hệ quốc tế, quyền độc lập của một quốc gia thể hiện qua quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của quốc gia không có sự áp đặt từ chủ thể khác, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Như vậy, các quốc gia dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, có tiềm lực mạnh hay yếu đều hoàn toàn bình đẳng với nhau về chủ quyền. Sự thực hiện chủ quyền quốc gia chỉ có thể trọn vẹn khi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình mà không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của chủ thể quốc tế khác, tức là việc thực hiện chủ quyển phải gắn với những giới hạn cần thiết. Sự giới hạn chủ quyền đó có thể do quốc gia tự xác định hoặc được xác định bằng những thoả thuận quốc tế của quốc gia với các chủ thể khác của luật quốc tế.
Bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tê hiện đại. Trật tự quốc tế chỉ có thể được duy trì nếu các quyền bình đẳng của các quốc gia tham gia trật tự đó được hoàn toàn đảm bảo. Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình: “Tổ chức Liên hợp quốc dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa tất cả các nước thành viên” (khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này là nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại. Nó được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương và trong nhiều văn bản quốc tê' quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế.
2. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực
Quá trình dân chủ hoá đời sống quốc tê' tất yếu dãn đến sự hạn chế dùng sức mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh trong quan hộ giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau. Khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc quy định “Tấr cả các nước thành viên Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế không được đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc nhằm những mục đích khác không phù hợp với mục đích của Liên hợp quốc Theo quy định nêu trên thì việc một chủ thể dùng các loại sức mạnh nhằm khống chế, đe dọa tấn công, tấn cóng, hoặc cưỡng bức trái pháp luật quốc tế đối với một chủ thể khác trong quan hệ quốc tế là hành vi vi phạm luật quốc tế.
Sau này, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong Hiến chương đã được cụ thể hoá trong một loạt các vãn bản quốc tế quan trọng được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc (do Đại hôi đồng thông qua năm 1970); Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược, Định ước của Hội nghị Henxinki nãm 1975 về An ninh và hợp tác của các nước châu Âu; Tuyên bố nãm 1987 về việc Nâng cao hiệu quả của nguyên tắc khước từ đe dọa dùng sức mạnh hoặc đe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ quốc tế và một số vàn kiện của phong trào không liên kết, tổ chức ASEAN...
Hiến chương Liên hợp quốc khồng chỉ cấm việc sử dụng lực lượng vũ trang mà còn cấm cả sự cưỡng bức phí vũ trang nhưng khoản 4 Điều 2 Hiến chương nhấn mạnh trước tiên đến việc cấm sử dụng lực lượng vũ trang.
Đinh ước Henxinki năm 1975 quy định, các quốc gia tham gia sẽ “khước từ sử dụng mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên khác, khước từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kình tế". Như vậy, khái niệm vũ lực theo luật quốc tế hiện đại không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ là sử dụng hoặc đe dọa sử dụng lực lượng vũ trang để chống lại chủ quyền, độc lập của quốc gia khác mà còn mở rộng việc nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh phi vũ trang khác.
Nguyên tấc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực trước tiên nghiêm cấm chiến tranh xâm lược. Theo Định nghĩa xâm lược năm 1974, việc một quốc gia sử dụng lực lượng vũ trang trước tiên được coi là hành động gây chiến tranh xâm lược, là tội ác quốc tế, làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tê của quốc gia và trách nhiệm hình sự quốc tế của các tội phạm chiến tranh.
3. Nguyên tác hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tấc này.
Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả nàng tiềm ẩn, phát sinh từ các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó thường là hoàn cảnh cụ thể mà trong đố các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm cụ thể trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau và có những yêu cầu, hay đòi hỏi cụ thể không thể thống nhất được. Vì vây, sự trái ngược nhau về quan điểm và quyền lợi đã đưa đến việc không thoả thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, từ đó làm nảy sinh xung đột, mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp là sự va chạm xung đột về quyển lợi giữa các quốc gia hoặc nhóm các quốc gia; sự khác biệt về đường lối chính trị, kinh tế giữa các quốc gia hoặc nhóm các quốc gia và cả sự khác biệt về cách nhìn nhận, giải quyết các vấn đề pháp lý quốc tế .
Trước Chiến tranh thế giới thứ 11, luật quốc tế đã ghi nhận một số biện pháp giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế nhưng giải quyết hoà bình tranh chấp quốc tế thời kỳ đó chưa trở thành nguyên tắc của luật quốc tế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Hiến chương Liên hợp quốc (khoản 3 Điều 2) đã ghi nhận hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế là nguyên tắc bắt buộc chung đối với lất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế, theo đó, tất cả các nước thành viên của Liên hợp quốc phải cớ nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hoà bình. Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định cụ thể các biện pháp hoà bình mà các thành viên Liên hợp quốc với tư cách là bên tham gia vào tranh chấp quốc tế cần lựa chọn để giải quyết. Theo Điều 33 Hiến chương thì “các bên tham gia tranh chấp quốc tê' trước tiên phải cố gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như: đàm phán, điều tra, trung gian, hoà giải, trọng tài, ĩơà án, thông qua các cơ quan hay tổ chức quốc tể khu vực hoặc bằng những biện pháp hoà bình khác do các bên lựa chọn Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp hoà bình nói trên để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. Thực tiễn cho thấy phương pháp đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia hay sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng.
Đàm phán trực tiếp là biện pháp tốt nhất để giải quyết nhanh chóng tranh chấp quốc tế, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên, dễ đi đến thoả thuận nhượng bộ lẫn nhau.
Cùng với sự phát triển các quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều đến biện pháp thông qua tổ chức khu vực, tổ chức phổ cập để giải quyết tranh chấp quốc tế, trong đó phải kể đến vai trò của các tổ chức khu vực như EU, ASEAN... và Liên hợp quốc.
4. Nguyên tắc không can thiệp vào cóng việc nội bộ của quốc gia khác
Xuất hiện trong thời kỳ cách mạng tư sản, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chính phủ, của dân tộc khác được ghi nhân trong Hiến pháp của một số nước tư bản nhưng thời kỳ đó, về phương diện luật quốc tế, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ còn nhiều hạn chế, bởi vì luật quốc tế còn chịu sự khống chế của nguyên tấc vũ lực - “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” và cho phép sử dụng các hình thức can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
Khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của tổ chức này đã mở rộng và cụ thể hoá nội dung của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ. Theo khoản 7 Điều 2 "TỔ chức Liên hợp quốc khủng có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyển nội hộ của hất kỳ quốc gia nào". Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc của quốc gia khác cũng đặt ra cho lất cả các thành vièn của cộng đồng quốc tể.
Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Nghị quyết vổ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ được thông qua năm 1965, với việc “Tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia”. Nội dung của nguyên tắc này đưực phát triển đáng kể trong Tuycn bố của Liên hợp quốc về các nguyên lắc của luật quốc tế liên quan đến quan hê hữu nghị và họp tác giữa các quốc gia năm 1970.
Ngoài ra, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ còn được ghi nhận trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng khác như Tuyên bố của Liên hợp quốc vé trao trả độc ỉập cho các nước và các dân tộc thuộc địa năm ỉ 960, Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị các nước Á Phi năm 1955 lại Băng-đung, Định ước cuối cùng của Hội nghị Hcnxinki vé An ninh hợp tác châu Âu nám 1975, Hiệp định Giơncvơ năm 1954 về Việt Nam, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam và nhiều văn bản quốc tế quan trọng khác.
Từ những quy định của các văn kiện pháp lý quốc tê' có thể thấy công việc thuộc thẩm quyền nội bộ cửa quốc gia là các phương diện hoạt động chủ yếu cùa nhà nước dựa trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, bao gồm toàn bộ những hoạt động mang tính chất đối nội, đối ngoại của quốc gia và được tiến hành phù hợp với luật quốc gia cũng như luật quốc tế, chẳng hạn:
- Việc lựa chọn và tiến hành đường lối chính trị và các chính sách kinh tế ~ văn hoá - xã hội để phát triển đất nước.
Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của nhà nước và thiết lập quan hệ hựp tác với các chủ thể luật quốc tế
Nội dung của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ bao gồm:
- Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe doạ can thiệp khác nhàm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của quốc gia.
- Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc vào mình.
Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác.
- Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở quốc gia khác.
- Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tố, xã hội và văn hoá phù hợp với nguyện vọng của dân tộc.
5. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác
Trong luật quốc tế hiện đại, các quốc gia ỉà những thực thể có chủ quyền, bình đẳng với nhau về chủ quyền, hành động với tư cách là chủ thể độc lập, không chịu sự can thiệp cùa các chủ thể khác. Nhưng xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế là sự hội nhập, sự hợp tác trên cơ sở các bên cùng có ỉợi lại đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia. Sự hợp tác quốc tê' giữa các quốc gía trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm duy trì hoà bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hoá. Theo Hiến chương, các quốc gia có nghĩa vụ “tiến hành hợp tác quốc tê' để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hôi, vãn hoá và nhân đạo trên phạm vi quốc tế” cũng như “duy trì hoà bình và an ninh quốc tê' bàng cách tiến hành các biện pháp tập thể có hiệu quả”.
Nội dung nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau được quy định rõ trong hai điều 55 và 56 của Hiến chương. Đặc biệt, Điều 55 quy định hai nghĩa vụ của các quốc gia, thành viên Liên hợp quốc là nghĩa vụ hợp tác với nhau để thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hiến chương và nghĩa vụ hợp tác với tổ chức Liên hợp quốc để đạt được những mục đích kể trên. Đương nhiên, các hình thức và mức độ hợp tác tuỳ thuộc vào chính bản thân các quốc gia, tuỳ thuộc vào nhu cầu, điều kiện vật chất và khả năng sẩn sàng thích ứng của hệ thống pháp luật trong nước thực thi những nghĩa vụ quốc tế mà quốc gia phải gánh vác.
Nghĩa vụ hợp tác còn thể hiện ở việc các quốc gia phải hành động phù hợp với các nguyên lắc của Liên hợp quốc. Điều này có nghĩa là các quốc gia phải thể hiện nỗ lực giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua sự hợp lác, phối hợp với nhau. Ngay cả các quốc gia không phải là thành viên Liên hợp quốc cũng phải tôn trọng các nguyên tắc của Hiến chương vì điều này cần thiết cho công cuộc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế 1970 lần đầu tiên đã quy định cụ thể nội dung của nguyên tắc này, bao gồm:
- Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
- Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình thức phân biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc.
- Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, vãn hoá, thương mại và kỹ thuật, công nghệ theo các nguyên lắc bình đảng về chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ,
- Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện các hành động chung hay riêng trong việc hợp tác với Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương.
- Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hoá, khoa học, công nghệ nhàm khuyến khích sự tiến bộ về văn hoá, giáo dục, phát triển kinh lế trên toàn thế giới, đặc biệt là tại các nước đang phát triển.
6. Nguyên tác đân tộc tự quyết
Tôn trọng quyền của mỗi dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình thức phát triển là một trong những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ quốc tế. Quyền này được thểhiện một cách tập trung nhất trong nguyên tắc dân tộc tự quyết, dựa trên nẻn tảng chủ quyền dân lộc. về phương diện pháp lý, chù quyền dân tộc là quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc đó trong đời sống quốc tế, thổ hiện ở tổng thể các quyền thiêng liêng và bất khả xám phạm của mỗi dân tộc, được ghi nhận tại các ván bản pháp luật quốc gia và quốc tế. Ngày nay, chủ quyền dân tộc được hiện thực hoá trong đờị sống quốc tế thông qua quyền dân tộc cơ bản, [à quyền vốn có của mỗi dân tộc, được luật quốc tế ghi nhận và bảo đảm thực hiện, bao gôm:
- Quyền được độc lập của dân tộc;
- Quyền bình đẳng với các dân tộc khác;
- Quyền tự quyết của dân tộc;
“ Quyền được sống trong hoà bình, an ninh, phát triển bền vững;
- Quyền được định đoạt tài nguycn thiên nhiên.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, quyển dân tộc tự quyết được hiểu theo nghĩa là việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lạp cũng như lựa chọn ỉhể chế chính tộ, đường lối phát triển đất nước. Như vậy, quyền dân tộc tự quyết là một trong những nội dung quan trọng của quyền dân tộc cơ bản nhưng trong điểu kiện quan hệ quốc tế hiện nay, có sự mở rộng quan niệm về quyền dân tộc tự quyết so với khái niệm nêu trên. Tôn trọng quyền dân tộc lự quyết trở thành nguyên tắc pháp lý quốc tế, dược ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa năm 1960; haỉ công ước về các quyền dân sự chính trị, quyền kinh tế - xã hội - văn hoá năm 1966, Tuyên bố về các nguyên tấc của luật quốc tế năm 1970.
Như vậy, nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm nội dung chính sau đây:
- Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyên;
- Tự lựa chọn cho mình chê' độ chính trị, kinh tế, xã hội;
- Tự giải quyết các vâh đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;
- Quyền của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự.
- Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống lịch sử văn hoá, tín ngưỡng, điều kiện địa lý...
Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều được các dân tộc và quốc gia khác tôn trọng.
7. Nguyên tác tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda)
Nguyên tấc thiện chí thực hiện cam kết quốc tế xuất hiện rất sớm, từ khi xuất hiện nhà nước và tồn tại dưới hình thức tập quán pháp lý quốc tế (Pacta Sunt Servanda). Ngày nay, nguyÊn tắc này được ghi nhận trong rất nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương.
Trong Lời mở đầu của Hiến chương Liên hợp quốc đã khảng định sự quyết tâm của các nước thành viên “tạo điêu kiện để đảm bảo công lý và sự tôn trọng các nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế và các nguồn khác của luật quốc tể\ Theo khoản 2 Điều 2 của Hiến chương thì “tất cả các thánh viên Liên hợp quốc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ do Hiến chương đặt ra”.
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tê' đã khẳng định tính phổ cập của nguyên lắc thiện chí thực hiện cam kết quốc tế. Theo Công ước này thì “mỗi điều ước quốc tế hiện hành đều ráng buộc các bên tham gia và đều được các bên thực hiện một cách thiện chi”.
Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tê' năm 1970 đã mở rộng hơn nữa phạm vi áp dụng của nguyên tắc này. Theo đó, mỗi quốc gia phải thiện chí thực hiện các nghĩa vụ quốc tế do Hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ phát sinh từ các quy phạm và nguyên tắc được công nhận rộng rãi của luật quốc tế. Khi nghĩa vụ theo điều ước quốc tế trái với nghĩa vụ của thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương thì nghĩa vụ theo Hiến chương có giá trị ưu tiên.
Nguyên tắc thiện chí thực hiện cam kết quốc tế chỉ được áp dụng đối với các điều ước quốc tế có hiệu lực, tức là đối với những điều ước được ký kết một cách tự nguyên trên cơ sở bình đẳng.
Luật Minh Khuê(sưu tầm và biên tập)