1. Vai trò của hoạt động giám định tư pháp đối với hoạt động điều tra tội phạm
Giám định tư pháp là hoạt động bổ trợ tư pháp. Thông qua việc đánh giá, kết luận về phương diện chuyên môn những vấn đề có liên quan đến vụ án, hoạt động giám định tư pháp có vai trò quan trọng đối với hoạt động tố tụng, cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng những chứng cứ mang tính khoa học, góp phần giải quyết vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
Bản kết luận giám định là nguồn chứng cứ trong việc giải quyết vụ án. Hiện nay, kinh tế - xã hội phát triển, ứng dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, xuất hiện ngày càng nhiều tranh chấp trong các quan hệ giao dịch, hành vi phạm tội tinh vi, xuất hiện những thủ đoạn mới che dấu tội phạm cũng như gây khó khăn cho công tác điều tra, nên có cơ sở dự báo về yêu cầu giám định tư pháp nói chung, việc trưng cầu giám định trong hoạt động điều tra nói riêng sẽ gia tăng.
Trưng cầu giám định là việc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ra quyết định để yêu cầu người có kiến thức về các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (được thể hiện thông qua Quyết định trưng cầu giám định).
Trên thực tế, tùy thuộc yêu cầu điều tra vụ án mà cơ quan điều tra có thể quyết định trưng cầu giám định (lần đầu); quyết định trưng cầu giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết của vụ án đã được kết luận trước đó; quyết định trưng cầu giám định lại và quyết định trưng cầu giám định lại lần 2 được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Thực tế cho thấy, hầu hết các trường hợp cơ quan điều tra trưng cầu tổ chức giám định thực hiện giám định.
2. Các trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định trong Tố tụng hình sự
Căn cứ theo quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS năm 2015), quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định cụ thể: Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định những vấn đề sau:
- Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
- Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
- Nguyên nhân chết người;
- Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
- Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
- Mức độ ô nhiễm môi trường.
Như vậy, khi cần xác định một trong các vấn đề nêu trên thì bắt buộc phải tiến hành trưng cầu giám định.
3. Những vướng mắc trong thực tiễn trưng cầu giám định khi giải quyết các vụ án hình sự
Thực trạng công tác kiểm sát việc giám định tư pháp trong các vụ án hình sự thời gian qua nhìn chung đã bảo đảm theo quy chế của ngành và quy định của pháp luật, là cơ sở để giải quyết triệt để vụ án. Tuy nhiên, trong một số vụ án hình sự, công tác kiểm sát việc giám định còn chưa chặt chẽ nên kết quả giám định còn chưa chính xác hoặc còn chưa cụ thể, phải trưng cầu giám định nhiều lần; cơ quan điều tra tại một số địa bàn chậm ra quyết định trưng cầu giám định theo quy định hoặc bị hại từ chối giám định nhưng cơ quan điều tra không ra quyết định dẫn giải đi giám định thương tích...
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng đang gặp phải vướng mắc từ quy định của BLTTHS năm 2015 về những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định.
Vụ việc thứ nhất: Ngày 12/8/2018, Nguyễn Thanh P đột nhập vào nhà của ông T vào lúc nửa đêm đã lấy trộm số vàng theo lời khai của bị hại là 01 sợi dây chuyền 5 chỉ vàng 24K và 01 chiếc nhẫn 03 chỉ vàng 18K. Quá trình điều tra, Nguyễn Thanh P khai nhận đã vào nhà ông T trộm lấy số tài sản trên và đem đi bán tại Tiệm vàng K với số tiền là 22.000.000 đồng. Làm việc với ông K là chủ Tiệm vàng K cho biết là có mua của một người 01 sợi dây chuyền và 01 chiếc nhẫn với số tiền 22.000.000 đồng nhưng số vàng này đã bán cho người khác và không biết người mua vàng ở đâu.
Tuy nhiên, vụ việc này có hai ý kiến về việc trưng cầu giám định như sau:
- Ý kiến thứ nhất, cho rằng tài sản mà P trộm là vàng nên theo quy định tại khoản 5 Điều 206 của BLTTHS năm 2015 thì bắt buộc phải trưng cầu giám định đối với số vàng đã trộm.
- Ý kiến thứ hai, cho rằng mặc dù khoản 5 Điều 206 của BLTTHS năm 2015 có quy đình vàng là thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Tuy nhiên, số vàng mà P trộm hiện không thu giữ được nên không thể trưng cầu giám được vì không có vật để giám định. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ căn cứ vào số tiền mà P bán vàng và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để truy cứu trách nhiệm hình sự P về Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Ảnh minh họa (Internet)
Vụ việc thứ hai: Ngày 15/9/2018, Trần H bị bắt quả tang về hành vi mua bán trái phép ma túy. Quá trình điều tra, H khai nhận ngày 12/9/2018, H có bán cho anh Nguyễn Văn L một tép ma túy với số tiền là 250.000 đồng. Như vậy, hành vi H khai nhận có bán 01 tép ma túy thì có hai cách xử lý khác nhau:
- Ý kiến thứ nhất, cho rằng hành vi mua bán ma túy ngày 12/9/2018 như khai nhận của H là vi phạm pháp luật. Theo quy định tại khoản 5 Điều 206 của BLTTHS năm 2015 thì chất ma túy phải bắt buộc phải trưng cầu giám định.
- Ý kiến thứ hai, cho rằng số ma túy mà H khai nhận bán không thu giữ được nên việc trưng cầu giám định chất ma túy như quy định tại khoản 5 Điều 206 của BLTTHS năm 2015 là không thể thực hiện được. Do đó chỉ có thể căn cứ vào lời khai của H để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H về Tội mua bán trái phép chất ma túy.
Hành vi phạm tội của P và H trong hai vụ án trên là rất rõ ràng. Tuy nhiên việc xử lý hành vi phạm tội của H thì đang gặp vướng mắc từ quy định của pháp luật. Nếu không xử lý hành vi phạm tội của P và H thì bỏ lọt tội phạm nhưng nếu đưa vụ án ra xét xử H và P mà không tiến hành trưng cầu giám định như quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 là vi phạm thủ tục tố tụng.
Từ những vướng mắc trên, có thể thấy cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định nhưng tang vật, vật chứng cần giám định trong vụ án không còn, không thu giữ được.
Để tham khảo thêm thông tin về vấn đề này, quý khách hàng có thể tìm hiểu tại bài viết: Giám định tư pháp là gì ? Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giám định tư pháp của Luật Minh Khuê.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Các trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!