Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì:

“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó”.

Như chúng ta đã biết, di sản bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác, đây được gọi là di sản thừa kế của người chết để lại.

Tuy nhiên, trước khi khối di sản của người chết để lại được xem xét để chia cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật, thì phải xem xét các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại quy định:

“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2.  Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

3.   Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhàn hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau: Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; Tiền cấp dưỡng còn thiếu; Chi phí cho việc bảo quản di sản; Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ; Tiền công lao động; Tiền bồi thường thiệt hại; Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước; Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân; Tiền phạt; Các chi phí khác (Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2015).

Như vậy, trường hợp di sản thừa kế được chia theo quy định của pháp luật thì khối di sản dùng để chia cho các thừa kế chỉ là phần còn lại của toàn bộ khối di sản của người chết trừ đi các khoản liên quan đến nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và các chi phí liên quan đến thừa kế.

Ví dụ: ông A có vợ là bà B, ông bà có hai người con chung là c, D. Năm 2017, ông A chết có để lại di chúc (hợp pháp), di sản của ông A là 700.000.000d, trong đó ông để lại cho c và D mỗi người 350.000.000đ, không để lại cho bà B. Khi còn sống, ông A có vay khoản tiền là 50.000.000đ; Chi phí mai táng của ông A là 20.000.ooođ.

Bà B khởi kiện yêu cầu được hưởng di sản thừa kế của ông A theo quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015).

Trường hợp này cần phải xác định hai phần ba suất của một thừa kế theo pháp luật nếu di sản của ông A được chia thẹo pháp luật là: 700.000.000d - (50.000.000đ + 20.000.000đ) = 630.000.000d : 03 thừa kế theo pháp luật = 210.000.000d.

Như vậy hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản của ông A là hai phần ba của 210.000.000d.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến việc chia tài sản thừa kế, vui lòng liên hệ trực tiếp: Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật thừa kế trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số: 1900.6162

Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)