Mục lục bài viết
1.Định nghĩa
Chia tách cổ phiếu (STOCK SPLIT) là tăng số cổ phần được chào bán, được thực hiện bằng cách bổ sung điều lệ của công ty. Bản bổ sung việc gia tăng (chia tách tăng) số các cổ phần thường, hay giảm xuống, được gọi là chia tách giảm hay chia tách ngược cổ phiếu dự trữ. Giao dịch này không làm tăng vốn cổ phần, vì mệnh giá công bố của cổ phẩn sở hữu cũng được giảm theo tỷ lệ tương ứng. Trong chia tách ngược dự trữ, công ty phát hành giảm số cổ phần đang lưu hành. So sánh với RIGHTS OFFERING.
Chẳng hạn công ty Y đã phát hàng 1.000 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu có mệnh giá là 1 triệu đồng. Tổng số vốn mà cổ đông ghi trong bảng tổng kết tài sản là 1 tỷ đồng. Nếu thị trường chứng khoán định giá công ty được 10 tỷ đồng, thì như vậy mỗi mệnh giá cổ phiếu là 10 triệu đồng.
Tuy nhiên, công ty Y có thể thu hút nhiều cổ đông hơn bằng cách giảm giá thị trường của mỗi cổ phiếu. Để đạt được mục đích đó, công ty cần chia nhỏ cổ phiếu theo tỷ lệ 2:1 và cổ đông của công ty cũng sẽ nhận được số lượng cổ phiếu gấp đôi.
Với cách chia tách cổ phiếu, công ty sẽ có 2 nghìn cổ phiếu. Mỗi cổ phiếu có mệnh giá 500 nghìn đồng, nhưng khối lượng vốn của công ty vẫn là 1 tỷ đồng như cũ. Tuy nhiên, giá thị trường của mỗi cổ phiếu bây giờ chỉ còn là 5 triệu đồng. Công ty dự kiến với giá thấp hơn này thì cổ phần của công ty sẽ dễ tiêu thụ hơn.
Lý do doanh nghiệp phải chia tách cổ phiếu
- Doanh nghiệp muốn giữ lại phần lợi nhuận từ việc chia tách cổ phiếu để tiếp tục tái đầu tư thay vì chia số lợi nhuận đó cho cổ đông.
- Chia tách cổ phiếu hay chia cổ tức bằng cổ phiếu nhằm tăng lượng cổ phiếu lưu hành. Qua đó, giúp làm cho thanh khoản mua bán của cổ phiếu đó tăng lên và tốt cho doanh nghiệp sau này có muốn phát hành cổ phiếu thêm cũng sẽ có người mua.
- Doanh nghiệp bị thiếu hụt dòng tiền hay muốn giữ lại với mục đích cá nhân, ban quản trị sẽ chia cổ phiếu cho cổ đông thay vì phải chia tiền. Bằng cách này, cổ đông sẽ ngộ nhận là mình được nhận thêm cổ phiếu nhưng thực chất là mình chẳng được gì.
2.Các hình thức phân tách cổ phiếu
Hình thức 1: Chia cổ tức bằng cổ phiếu
Chia cổ tức bằng cổ phiếu là việc công ty sẽ phát hành thêm một số lượng cổ phiếu để trả cho cổ đông. Về cơ bản, hình thức này không làm thay đổi về tài chính của công ty, chỉ thay đổi về mặt bút toán và kế toán.
Đặc điểm:
- Số lượng cổ phiếu tăng lên.
- Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) sẽ giảm xuống.
- Việc này có ảnh hưởng đến việc điều chỉnh giá của ngày giao dịch không hưởng quyền.
- Dòng tiền không thể vào doanh nghiệp. Bản chất của việc làm này là ông ty làm tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành lên và không phát sinh bất cứ dòng tiền nào chảy vào doanh nghiệp.
- Vốn chủ sở hữu không đổi và tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư không thay đổi.
- Nguồn chi cổ phiếu bằng cổ tức sẽ từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, thặng dư vốn cổ phần, quỹ đầu tư phát triển hoặc quỹ khác.
Hình thức 2: Phát hành cho cổ đông hiện hữu
Là quyền mua cổ phiếu ưu tiên dành cho các cổ đông hiện hữu của công ty. Lúc này, những cổ đông đang nắm giữ cổ phần doanh nghiệp được mua cổ phiếu thường mới phát hành với giá ưu đãi (thường thấp hơn giá thị trường). Và quyền này thường chỉ có thời hạn ngắn từ 30 đến 45 ngày.
Đặc điểm:
- Số lượng cổ phiếu tăng lên.
- Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) sẽ giảm xuống.
- Việc này có ảnh hưởng đến việc điều chỉnh giá của ngày giao dịch không hưởng quyền.
- Dòng tiền có chảy vào doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu mới, sẽ có nhà đầu tư bỏ tiền để sở hữu những cổ phiếu này. Điều này đồng nghĩa với dòng tiền từ công chúng chảy vào doanh nghiệp.
- Vốn chủ sở hữu tăng lên.
- Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư sẽ giảm xuống nếu không thực hiện quyền mua và không đổi nếu thực hiện.
Hình thức 3: Phát hành riêng lẻ
Phát hành cổ phiếu riêng lẻ là việc phát hành chứng khoán được bán trong một phạm vi người mua nhất định. Thông thường các đối tượng người mua thường là cổ đông chiến lược hoặc nhà đầu tư chuyên nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ thường chịu sự điều chỉnh của Luật công ty.
Đặc điểm:
- Số lượng cổ phiếu tăng lên.
- Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) sẽ giảm xuống.
- Việc này không ảnh hưởng đến việc điều chỉnh giá của ngày giao dịch không hưởng quyền.
- Dòng tiền có chảy vào doanh nghiệp.
- Vốn chủ sở hữu tăng lên.
- Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư sẽ giảm xuống theo phần trăm.
Hình thức 4: ESOP
Là việc doanh nghiệp phát hành một lượng cổ phiếu bán cho các thành viên trong HĐQT, ban giám đốc và nhân viên trong công ty. Mức giá bán rẻ hơn rất nhiều so với thị trường và được xem là phần thưởng dành cho cán bộ nhân viên.
Đặc điểm:
- Số lượng cổ phiếu tăng lên.
- Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) sẽ giảm xuống.
- Việc này không ảnh hưởng đến việc điều chỉnh giá của ngày giao dịch không hưởng quyền.
- Dòng tiền có vào doanh nghiệp nếu mua với giá ưu đãi. Và không có dòng tiền vào nếu mua với giá 0 đồng.
- Vốn chủ sở hữu không đổi nếu mua với giá 0 đồng, tăng nếu mua với giá ưu đãi.
- Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư sẽ giảm xuống.
- Nguồn chi cổ phiếu bằng cổ tức sẽ từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, thặng dư vốn cổ phần, quỹ đầu tư phát triển hoặc quỹ khác
3.Ý nghĩa của việc chia tách cổ phiếu
Nghiệp vụ chia tách cổ phiếu được đánh giá là sẽ mang lại lợi ích cho cả 2 bên (cả doanh nghiệp và nhà đầu tư). Đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, đây sẽ là cơ hội để sở hữu một phần tài sản của các công ty vốn trước đây có giá cổ phiếu rất cao. Và, trong dài hạn, việc nắm giữ nhiều cổ phiếu hơn thậm chí sẽ mang tới nhiều lợi nhuận hơn vì cả hai đều sẽ đồng thời gia tăng giá trị.
Chia tách cổ phiếu đem lại nhiều lợi ích cho cả công ty chia tách và đầu tư. Cụ thể như sau:
- Thu hút các nhà đầu tư nhỏ lẻ: Một số nhà đầu tư sẽ không chuộng đầu tư vào một số cổ phiếu nhất định nếu giá mỗi cổ phiếu quá cao. Việc tiến hành chia tách sẽ làm giảm giá cổ phiếu lưu hành, từ đó cho phép nhiều nhà đầu tư mua cổ phiếu hơn.
- Tính thanh khoản lớn hơn: Số lượng cổ phiếu tồn tại trên thị trường càng lớn thì tiềm năng thanh khoản càng lớn. Nhiều cổ phiếu hơn có thể đồng nghĩa với nhiều giao dịch hơn và lượng tiền hơn trao tay lớn hơn.
- Định giá theo tâm lý: Đối các công ty thực hiện chia tách cổ phiếu, điều này sẽ tạo ra những kích thích về tâm lý cho các nhà đầu tư. Các nhà phân tích thường nói một cổ phiếu nào đó được “định giá quá cao”, có nghĩa là giá hiện tại của nó đang cao hơn so với giá trị thực của nó. Bằng cách chia tách cổ phiếu, giá cổ phiếu riêng lẻ sẽ giảm xuống mà không ảnh hưởng đến cổ đông hoặc vốn hóa thị trường của công ty, góp phần tạo ra hiệu ứng tâm lý rằng công ty đang được định giá đúng mức. Và từ đó, khiến các nhà đầu tư an tâm tiếp tục rót vốn.
- Thúc đẩy giá đi lên: Sức hấp dẫn của việc giảm giá cổ phiếu cao cấp sẽ thúc đẩy giá tăng trở lại, điều này làm tăng giá trị tổng thể cho công ty ngay cả khi mô hình kinh doanh và phương thức hoạt động của công ty không hề thay đổi. Chính vì thế, nhiều nhà đầu tư thường tận dụng thời điểm cổ phiếu chia tách để kiếm lợi nhuận.
Cho đến nay, nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu chưa xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trường hợp tăng vốn điều lệ của công ty SSI gần đây bằng cách phát hành thêm cổ phiếu không phải là chia tách cổ phiếu. Đó chính là trường hợp công ty dùng các khoản thặng dư vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại và các quỹ hiện có để chuyển thành vốn điều lệ thông qua hình thức phát hành thêm cổ phiếu thưởng cho các cổ đông hiện hữu. Vốn điều lệ và số lượng cổ phiếu của công ty tăng lên nhưng trong thực tế tổng vốn chủ sở hữu của Công ty vẫn không thay đổi và như vậy việc phát hành thêm cổ phiếu của Công ty SSI về thực chất chính là điều chỉnh lại giá trị sổ sách trên một cổ phiếu.
4. Ưu nhược điểm khi chia tách cổ phiếu
Ưu điểm
– Cải thiện thanh khoản
Nếu giá của một cổ phiếu tăng lên hàng trăm đô la trên mỗi cổ phiếu, nó có xu hướng làm giảm khối lượng giao dịch của cổ phiếu. Việc tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành với giá mỗi cổ phiếu thấp hơn sẽ tăng thêm tính thanh khoản. Thanh khoản tăng lên này có xu hướng thu hẹp chênh lệch giữa giá đặt mua và giá bán, cho phép các nhà đầu tư có được giá tốt hơn khi họ giao dịch.
– Giúp danh mục đầu tư đơn giản hơn
Khi giá mỗi cổ phiếu thấp hơn, các nhà quản lý danh mục đầu tư thấy dễ dàng hơn trong việc bán cổ phiếu để mua cổ phiếu mới. Mỗi giao dịch liên quan đến một tỷ lệ phần trăm nhỏ hơn của danh mục đầu tư.
– Quyền chọn bán rẻ hơn
Bán một quyền chọn bán có thể rất tốn kém đối với những cổ phiếu đang giao dịch ở mức giá cao. Bạn có thể biết rằng quyền chọn bán cung cấp cho người mua quyền bán 100 cổ phiếu cổ phiếu (được gọi là lô) với mức giá đã thỏa thuận. Người bán quyền mua phải chuẩn bị để mua lô cổ phiếu đó. Nếu một cổ phiếu đang giao dịch ở mức 1.000 đô la một cổ phiếu, người bán thỏa thuận phải có 100.000 đô la tiền mặt trong tay để thực hiện nghĩa vụ của họ. Nếu một cổ phiếu đang giao dịch ở mức 20 đô la một cổ phiếu, họ phải có mức 2.000 đô la hợp lý hơn.
– Giá cổ phiếu thường tăng
Có lẽ lý do thuyết phục nhất để một công ty chia tách cổ phiếu của mình là nó có xu hướng tăng giá cổ phiếu. Một nghiên cứu của Nasdaq đã phân tích các đợt chia tách cổ phiếu của các công ty vốn hóa lớn từ năm 2012 đến năm 2018 cho thấy rằng chỉ cần công bố một đợt chia tách cổ phiếu đã làm tăng giá cổ phiếu trung bình 2,5%. Ngoài ra, một cổ phiếu sau khi chia tách đã tăng trưởng tốt hơn thị trường trung bình 4,8% trong hơn một năm.
Ngoài ra, nghiên cứu của Tiến sĩ David Ikenberry, giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Leeds của Đại học Colorado, chỉ ra hiệu suất giá của các cổ phiếu đã tách ra cao hơn thị trường trung bình 8% trong một năm và trung bình là 12 % trong ba năm. Các bài báo của Ikenberry được xuất bản vào năm 1996 và 2003, và mỗi bài phân tích hiệu suất của hơn 1.000 cổ phiếu
Nhược điểm
–Có thể làm tăng sự biến động thị trường
Việc chia tách cổ phiếu có thể làm tăng sự biến động trên thị trường do giá cổ phiếu mới. Nhiều nhà đầu tư có thể quyết định mua cổ phiếu ngay bây giờ vì nó có giá cả phải chăng hơn và điều đó có thể làm tăng sự biến động của cổ phiếu.
Nhiều nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm lầm tưởng việc chia tách cổ phiếu là một điều tốt là do họ có xu hướng nhầm lẫn mối tương quan và nhân quả. Khi một công ty hoạt động thực sự tốt, việc chia tách cổ phiếu hầu như luôn không thể tránh khỏi khi giá trị sổ sách và cổ tức tăng lên. Nếu một người nhìn thấy hoặc nghe về mô hình này đủ thường xuyên, hai người có thể trở nên liên kết với nhau.
–Không phải tất cả các đợt chia tách cổ phiếu đều làm tăng giá cổ phiếu
Một số đợt chia tách cổ phiếu xảy ra khi một công ty có nguy cơ bị hủy niêm yết. Điều này được gọi là chia tách cổ phiếu ngược lại. Mặc dù các nhà đầu tư có thể thấy giá mỗi cổ phiếu tăng sau khi chia tách ngược lại, nhưng cổ phiếu có thể không tăng giá trị sau khi chia tách hoặc có thể mất một thời gian để phục hồi. Các nhà đầu tư mới làm quen không biết sự khác biệt có thể cuối cùng mất tiền trên thị trường.