1. Hiểu thế nào là chung sống như vợ chồng?

Trong thực tế cuộc sống, nhiều cặp đôi nam nữ chọn sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Mối quan hệ của họ không được hỗ trợ bởi pháp luật, và do đó, họ đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc quản lý tài sản chung. Các vấn đề phổ biến bao gồm việc chia sẻ kinh doanh, mua sắm tài sản chung, và cùng nhau xây dựng các khối tài sản chung, mà không có sự bảo vệ pháp luật đặc biệt nào cho hôn nhân giữa họ.

Theo Điều 3 Khoản 7 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc chung sống như vợ chồng được xác định khi nam và nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. Để được xem xét như nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng, họ cần đáp ứng các điều kiện cần thiết cho việc kết hôn theo quy định. Ngoài ra, còn phải thỏa mãn một trong bốn trường hợp sau:

- Tổ chức lễ cưới khi bắt đầu sống chung.

- Việc chung sống được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận.

- Việc chung sống được người khác hoặc tổ chức chứng kiến.

- Sự thật là họ đã sống chung, chăm sóc, giúp đỡ nhau và xây dựng gia đình.

Thời điểm bắt đầu chung sống như vợ chồng được xác định là ngày tổ chức lễ cưới, ngày gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận việc chung sống, ngày người khác hoặc tổ chức chứng kiến, hoặc ngày họ thực sự bắt đầu sống chung, chăm sóc, giúp đỡ và xây dựng gia đình.

Pháp luật không ngăn cản đôi nam nữ độc thân, khi đủ điều kiện kết hôn, sống chung mà không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, không có sự khuyến khích hoặc bảo vệ nào từ pháp luật đối với mối quan hệ hôn nhân của họ. Việc nam nữ tự nguyện sống chung như vợ chồng có thể được coi là vi phạm pháp luật nếu người đang kết hôn chung sống với người khác hoặc người chưa kết hôn lại chung sống với người đã có vợ, có chồng, mà quan hệ này diễn ra một cách công khai hoặc không công khai nhưng họ sinh hoạt chung như một gia đình. Hành vi vi phạm này sẽ được xử lý tùy thuộc vào tính chất và mức độ, có thể bao gồm cả xử lý hành chính hoặc hình sự.

 

2. Trường hợp nào thì nam, nữ chung sống với nhau được công nhận là vợ chồng?

Đối với các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực), pháp luật chính thức công nhận mối quan hệ vợ chồng giữa họ. Nếu họ quyết định đăng ký kết hôn sau thời điểm 03/01/1987, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận từ ngày bắt đầu sống chung như vợ chồng.

Trong trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực), pháp luật yêu cầu họ phải đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian 02 năm, tính từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003. Nếu họ đăng ký kết hôn hoặc yêu cầu ly hôn trước ngày 01/01/2003, Tòa án vẫn công nhận mối quan hệ vợ chồng của họ và giải quyết thủ tục ly hôn theo quy định chung, từ ngày bắt đầu sống chung như vợ chồng.

Tuy nhiên, đối với những trường hợp sau ngày 01/01/2003, nếu họ quyết định đăng ký kết hôn và sau đó yêu cầu ly hôn, Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết theo quy trình thông thường. Trong trường hợp này, mối quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Đối với các trường hợp nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn, họ sẽ không được công nhận là vợ chồng theo quy định của pháp luật.

 

3. Chia tài sản trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng như thế nào?

Việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ chịu quy định của Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, theo đó nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

Vì vậy, nam nữ sống chung mà không đăng ký kết hôn sẽ không phải thực hiện thủ tục ly hôn khi họ muốn chấm dứt mối quan hệ. Mặc dù mối quan hệ hôn nhân của họ không được điều chỉnh bởi pháp luật, nhưng các vấn đề liên quan đến tài sản chung và con chung vẫn được quy định.

Cụ thể, đối với tài sản riêng của từng người, quy định rằng tài sản thuộc sở hữu của chủ sở hữu đó. Quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản chung phát sinh trong quá trình sống chung như vợ chồng sẽ được giải quyết theo Điều 16 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Theo đó, quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận, thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

Việc chia tài sản chung giữa hai bên sẽ tuân theo quy định tại Điều 219 của Bộ luật Dân sự 2015, mà theo đó trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác. Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Pháp luật hôn nhân gia đình tiếp tục tôn trọng thỏa thuận giữa các bên khi xử lý vấn đề phân chia tài sản chung trong trường hợp sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Trong trường hợp không đạt được sự thống nhất, hai bên có quyền khởi kiện tại Tòa án để giải quyết các tranh chấp liên quan đến chia tài sản.

Lưu ý: đối với trường hợp hôn nhân thực tế (sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987)

Trong trường hợp sống chung như vợ chồng tạo ra một hôn nhân thực tế, thì mối quan hệ này được coi là hợp pháp theo luật pháp, và do đó sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của pháp luật. Việc chia tài sản chung sẽ tuân theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Theo đó, việc phân chia tài sản chung sẽ dựa trên các yếu tố sau đây:

- Hoàn cảnh gia đình và cá nhân của vợ và chồng;

- Đóng góp lao động của vợ và chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản chung. Lao động của họ trong gia đình được coi là lao động có thu nhập;

- Bảo vệ lợi ích hợp pháp của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp, nhằm đảm bảo rằng các bên có điều kiện tiếp tục làm việc để tạo thu nhập;

- Xem xét về yếu tố lỗi của mỗi bên trong việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.

Bài viết liên quan: Sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 3/1/1987 thì có quyền với tài sản chung không ?

Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm và theo dõi!