>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân gia đình, gọi ngay: 1900.6162

 

Luật sư tư vấn:

1. Vợ chồng sống chung không kết hôn thì có được pháp luật công nhận không? 

Theo như quy định tai Mục 2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì sẽ xử lý như sau: 

- Với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước thời gian ngày 01/01/2001 (đây là ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn tuy nhiên lại chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo như quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội hai người họ có nghĩa vụ phải đăng ký kết hôn từ ngày 01/01/2001, trong vòng 2 năm cho đến ngày 01/01/2003. Như vậy cần phân biệt cụ thể rằng: 

  • Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu hai người chưa đi đăng ký kết hôn hoặc đã đăng ký kết hôn mà họ yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án và sẽ áp dụng quy định định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần lưu ý rằng trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng chứ không phải là kể từ ngày đăng ký kết hôn. Và thủ tục đăng ký kết hôn sẽ theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội do Bộ Tư pháp hướng dẫn. 
  • Còn trong tình huống kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì theo như quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ sẽ không được công nhận là vợ chồng; và nếu như một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết, áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận hai người họ không là vợ chồng. Bên cạnh đó nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung. 

- Việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng có được sự chấp thuận của pháp luật hay không sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quyền, nghĩa vụ của 2 bên trong thời kỳ hôn nhân cũng như khi ly hôn. Nếu là hôn nhân hợp pháp, hai bên sẽ được pháp luật bảo vệ, được thừa hưởng những quyền lợi theo pháp luật, và muốn được pháp luật công nhận thì họ cần phải làm đăng ký kết hôn. Tuy nhiên thì trong trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày mà Luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực) dù không đăng ký kết hôn vẫn được công nhận là vợ chồng hợp pháp.

Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì việc giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn tiến hành như sau: 

  • Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên. Nếu trong trường hợp không có thỏa thuận thì tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các quy định khác của pháp luật liên quan. 
  • Và việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; những công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. 

Qua đây có thể thấy rằng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định rõ ràng về vấn đề quyền và nghĩa vụ đối với con cũng như vấn đề tài sản trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Theo đó quyền và nghĩa vụ đối với con thì được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con; vấn đề tài sản sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên, trường hợp không thỏa thuận được sẽ dựa vào quy định của pháp luật.  

Khi đã được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp thì các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân sẽ được pháp luật bảo vệ, ví dụ như tài sản do một hoặc 2 người tạo lập trong thời kỳ hôn nhân (được xác định từ ngày đăng ký kết hôn) là đồng sở hữu của vợ chồng nên hai người sẽ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng. Thêm vào đó nếu trong trường hợp sau khi kết hôn, chẳng may một trong hai người qua đời thì vấn đề thừa kế sẽ được đặt ra như sau: 

- Tình huống người chết không có di chúc, di sản của họ sẽ được chia theo pháp luật, theo đó có nghĩa là tài sản để lại được chia theo hàng thừa kế và cha, mẹ, vợ, chồng, con của người chết thuộc hàng thừa kế thứ nhất. 

- Nếu người chết viết di chúc, di sản thừa kế của họ được chia theo mong muốn của họ. Tuy nhiên với những người sau đây cũng được hưởng thừa kế dù không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể: con chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động như bị tật nguyền về thể chất hoặc tinh thần; cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người chết. 

Như vậy hiện nay pháp luật chỉ công nhận vợ chồng hợp pháp khi họ có đăng ký kết hôn, còn những cặp nam nữ đang sống chung với nhau như vợ chồng mà chưa đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, vợ chồng khi kết hôn cần đăng ký tại cơ quan nhà nước để bảo vệ tốt nhất các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân và quyền lọi của con cái, đảm bảo hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng. 

 

2. Điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật hiện hành

Điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật hiện hành tại Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014:

" 1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính."

Các trường hợp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật:

"- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;"

Theo các quy định trên, chỉ cần anh chị bạn đủ điều kiện kết hôn và không nằm trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật thì đều có quyền yêu cầu tiến hành việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.