Mục lục bài viết
1. Hình thức chính thể là gì ?
Hình thức chính thể nhà nước là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa cơ quan đó với cơ quan cấp cao khác và với nhân dân.
Định nghĩa trên cho thấy, xem xét về hình thức chính thể của một nhà nước là xem xét trình tự và thủ tục thành lập cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước, xem xét mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân. Cụ thể, tìm hiểu về hình thức chính thể của một nhà nước là tìm hiểu xem trong nhà nước đó:
– Quyền lực cao nhất của nhà nước được trao cho ai? Nhà vua hay một cơ quan hay một số cơ quan của nhà nước?
– Phương thức trao quyền lực cho các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước là gì? Cha truyền con nối hay chỉ định hay suy tôn hay bầu cử…?
– Quan hệ giữa các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân diễn ra như thế nào? Nhân dân ở nước đó có được tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước hay không?
2. Các dạng chính thể
Trình tự và thủ tục thành lập cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân thể hiện khác nhau ở các nhà nước khác nhau tùy theo từng dạng chính thể. Vì vậy, hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là quân chủ và cộng hòa.
Chính thể quân chủ:
– Chính thể quan chủ là chính thể mà toàn bộ hoặc một phần quyền lực tối cao của nhà nuớc được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương…) theo phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập).
– Đặc trưng:
+ Người đứng đầu nhà nước và về mặt pháp lý là người có quyền cao nhất của nhà nước là vua hoặc những người có danh hiệu tương tự.
+ Đa số các vua lên ngôi bằng con đường cha truyền con nối nên đó là phương thức chủ yếu. Tuy nhiên, các nhà vua sáng lập ra một triều đại mới thường lên ngôi bằng các con đường khác như chỉ định, suy tôn, bầu cử, tự xưng, được phong vương hoặc tiếm quyền, song ở các triều vua sau, phương thức truyền kế ngôi vua lại được duy trì và củng cố.
– Các dạng: Chính thể quân chủ có hai hình thức cơ bản là quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (tương đối), riêng chính thể quân chủ hạn chế lại có ba biến dạng là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân chủ nhị hợp (nhị nguyên) và quân chủ đại nghị (nghị viện).
3. Khái niệm chính thể cộng hoà
Chính thể cộng hòa dân chủ là hình thức nhà nước, trong đó nguyên thủ quốc gia và cơ quan lập pháp do nhân dân bầu ra.
Trong tất cả các kiểu nhà nước trong lịch sử đều có chính thể cộng hòa dân chủ như cộng hòa dân chủ chủ nô (Aten); cộng hòa dân chủ phong kiến (Napôii - Italia, Nôpgôrôt - Nga); cộng hòa dân chủ tư sản và cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, ở dưới nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến, chính thể quân chủ chuyên chế là hình thức nhà nước phổ biến. Chính thể cộng hòa dân chủ tư sản thể hiện dưới ba hình thức là cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện và cộng hòa lưỡng tính. Chính thể cộng hòa dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện dưới ba hình thức là Công xã Pari, cộng hòa xô viết, cộng hòa dân chủ nhân dân.
Các nước có chính thể cộng hòa dân chủ đều xác lập nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hoặc xuất phát từ nhân dân). Mọi công dân đến tuổi do pháp luật quy định đều được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện trung ương và địa phương. Chính thể cộng hòa dân chủ là hình thức chính thể phổ biến của nhà nước hiện đại.
Chính thể cộng hoà Tổng thống là một hình thức chính thể trong đó nguyên thủ quốc gia - Tổng thống do nhân dân bầu ra vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Điển hình của chế độ cộng hoà Tổng thống là Hoa Kỳ. Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới – Hiến pháp Hoa kỳ năm 1787 đã tạo ra một mô hình chính thể đặc sắc với một Tổng thống có nhiều quyền lực bên cạnh một Nghị viện lập pháp và một Pháp viện tối cao hoàn toàn độc lập trong các phán quyết của mình đã làm cho học thuyết phân chia quyền lực được áp dụng một cách khá hoàn hảo. Học thuyết phân chia quyền lực mặc dù do các nhà tư tưởng người Anh và người Pháp (John Locke, Charles de Secondat Montesquieu) xây dựng và hoàn thiện, tuy nhiên lại được áp dụng một cách triệt để nhất ở Hoa Kỳ.
4. Phân biệt chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa
Chính thể quân chủ | Chính thể cộng hòa |
---|---|
- Là chính thể mà toàn bộ hoặc một phàn quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương...) theo phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập). | - Là chính thể mà quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan theo phương thức chủ yếu là bầu cử. |
- Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cá nhân (vua, hoàng đế, quốc vương...). | - Chủ thể nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước là một cơ quan (ví dụ: Quốc hội của Việt Nam) hoặc một số cơ quan (ví dụ: Nghị viện, Tổng thống và Tòa án tối cao ở Mỹ). |
- Phương thức trao quyền lực tối cao cho nhà vua chủ yếu là cha truyền con nối, ngoài ra, có thể bằng chỉ định, suy tôn, tự xưng, được phong vương, bầu cử hoặc tiếm quyền... | - Phương thức trao quyền lực cho cơ quan quyền lực tối cao là bằng bầu cử (ví dụ ở Việt Nam) hoặc chủ yếu bằng bầu cử (ví dụ ở Mỹ). |
- Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là suốt đời và có thể truyền ngôi cho đời sau. | - Thời gian nắm giữ quyền lực tối cao là chỉ trong một thời gian nhất định (theo nhiệm kỳ) và không thể truyền lại chức vụ cho đời sau. |
- Nhân dân không được tham gia vào việc lựa chọn nhà vua cũng như giám sát hoạt động của nhà vua. | - Nhân dân được tham gia bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước cũng như giám sát hoạt động của cơ quan này. |
- Chính thể quân chủ gồm các dạng: quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (tương đối). Riêng chính thể quân chủ hạn chế lại có ba biến dạng là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân chủ nhị hợp (nhị nguyên) và quân chủ đại nghị (nghị viện). | - Chính thể cộng hòa gồm hai dạng: cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ. Riêng chính thể cộng hòa dân chủ lại có các dạng tương ứng với các kiểu nhà nước là cộng hòa chủ nô, cộng hòa phong kiến, cộng hòa tư sản và cộng hòa xã hội chủ nghĩa. |
5. Quan hệ giữa nhà nước và cá nhân qua các kiểu nhà nước
Do bản chất, nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của mỗi kiểu nhà nước khác nhau, cho nên mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong từng kiểu nhà nước cũng có những biểu hiện khác nhau.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, nhà nước chủ nô là tổ chức quyền lực chính tụ của giai cấp chủ nô, do giai cấp chủ nô thiết lập và được giai cấp chủ nô sử dụng như là một công cụ có hiệu lực nhất và sắc bén nhất để đàn áp, bóc lột các cá nhân là nô lệ và những người lao động khác. Mỗi cá nhân nô lệ không được coi là con người mà chỉ là “công cụ lao động biết nói” và hoàn toàn lệ thuộc vào giai cấp chủ nô về thân thể, kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội... Bởi vậy, quan hệ giữa nhà nước chủ nô và các cá nhân nô lệ là quan hệ bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của hai bên. Nhà nước chủ nô chỉ có quyền đàn áp, áp bức, bóc lột cá nhân nô lệ, còn mỗi cá nhân nô lệ chỉ có nghĩa vụ đem sức lao động của mình ra để phục vụ cho chủ nô.
Trong chế độ phong kiến, thân phận của các cá nhân nông dân có khá hom nô lệ ở chỗ họ không còn bị coi là vật sở hữu riêng của giai cấp địa chủ nữa mà đã được giải phóng về thân thể, nhưng vẫn là người bị lệ thuộc về kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội vào nhà nước phong kiến, vì họ không có tư liệu sản xuất trong tay. Do đó, trong quan hệ giữa nhà nước phong kiến với cá nhân nông dân vẫn chưa có sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của hai bên. Người nông dân chỉ có nghĩa vụ phục vụ vô điều kiện cho giai cấp địa chủ và nhà nước phong kiến mà thôi.
Sang chế độ tư bản chủ nghĩa - một chế độ mà giai cấp tư sản tự cho là hoàn toàn tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái, nhân quyền, thì về mặt hình thức, giữa nhà nước tư sản với cá nhân hình như có sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, vì hiến pháp tư sản đã ghi nhận quyền con người, quyền công dân và quy định nghĩa vụ của nhà nước tư sản đối với các cá nhân trong xã hội. Nhưng trên thực tế, nhà nước tư sản tìm mọi cách trốn tránh các nghĩa vụ đó, hoặc hạn chế tối đa các quyền của cá nhân đã được hiến pháp tư sản ghi nhận. Bằng chứng là các luật về bầu cử của nhà nước tư sản đã đặt ra hàng loạt những điều kiện cần và đủ để công dân được đi bầu cử và tự ứng cử, như số lượng tài sản của cá nhân, trình độ học vấn, thời hạn cư trú... Đặc biệt, ở thời kì tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản (từ 1917 đến 1945), khi nhiều nhà nước tư sản đã chuyển thành những nhà nước độc tài phát - xít (ví dụ: ở Italia 1922, Đức 1933), thì các quyền tự do, dân chủ của công dân hoặc bị hạn chế tối đa, hoặc bị loại bỏ hoàn toàn. Vì lẽ đó, có thể khẳng định rằng trong quan hệ giữa nhà nước tư sản với cá nhân cũng không có sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của hai bên.
Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với cá nhân có sự biến đổi về chất, thể hiện ở sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ của hai bên, được ghi nhận, bảo đảm thực hiện bằng pháp luật, trở thành một nguyên tắc pháp lí quan trọng tạo nên tính thống nhất hài hoà giữa quyền và nghĩa vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa và cá nhân: quyền và nghĩa vụ của bên này là nghĩa vụ và quyền của bên kia. Một khi mà nguyên tắc bình đẳng và tính thống nhất hài hoà về quyền và nghĩa vụ đó không được quán triệt và thực hiện đầy đủ thì lợi ích của một bên cũng sẽ không được đảm bảo.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)