Trả lời:

Việc thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và ngược lại đã được quy định trong các văn bản luật, cụ thể như sau:

Tại điểm 1 phần a mục III Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế có quy định:

“Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột”.

Điều 27 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định:

“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này”.

Điều 681 (Bộ luật dân sự năm 1995) quy định:

“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này”.

Điều 678 (Bộ luật dân sự năm 2005) quy định:

 “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kể di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này”.

Điều 653 (Bộ luật dân sự năm 2015) quy định:

 “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.

Như vậy, các quy định của pháp luật về việc thừa kế giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi là thống nhất, xuyên suốt qua các giai đoạn. Tuy nhiên, việc người con nuôi có được thừa kế di sản của người chồng hoặc người vợ của mẹ nuôi, cha nuôi hay không thì pháp luật không quy định rõ.

Vấn đề này được hướng dẫn tại điểm a Điều 6 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể như sau:

“Trong trường hợp người có con nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó cho nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật”.

Tuy nhiên, Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế. Do vậy, không còn hiệu lực đối với các Bộ luật dân sự sau này (khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung năm 2020)). Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của pháp luật có liên quan, chúng ta có thể xác định được vấn đê' nêu trong câu hỏi, cụ thể như sau;

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì:

“Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.

Như vậy, quan hệ cha, mẹ và con chỉ được xác lập giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.

Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định:

"Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đổi với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Theo các quy định nêu trên thì quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ được xác lập giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Do vậy, trong trường hợp cụ thể này, quan hệ mẹ nuôi - con nuôi chỉ được xác lập giữa người phụ nữ với người được nhận làm con nuôi. Quan hệ giữa người chồng của người phụ nữ với người được nhận làm con nuôi không đương nhiên trở thành cha nuôi - con nuôi, nên trường hợp người chồng của mẹ nuôi chết thì người con nuôi của người vợ không phải là người thừa kế theo pháp luật của người chết.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến việc chia tài sản thừa kế, vui lòng liên hệ trực tiếp: Dịch vụ luật sư tư vấn pháp luật thừa kế trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số: 1900.6162

Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)