Mục lục bài viết
- 1. Ký kết điều ước quốc tế (ĐƯQT) là gì?
- 2. Chủ thể nào có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế?
- 2.1. Các quốc gia:
- 2.2. Các tổ chức quốc tế:
- 3. Trình tự ký kết ĐƯQT được thực hiện như thế nào?
- 3.1. Đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước
- 3.2. Ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
- 3.3. Bảo lưu điều ước quốc tế
1. Ký kết điều ước quốc tế (ĐƯQT) là gì?
ĐƯQT là thoả thuận quốc tế được ký bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó.
Ký kết ĐƯQT là quá trình ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế khi đã đồng ý với luật quốc tế quốc tế, bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký, phê chuẩn hoặc phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế. Mỗi giai đoạn này có sự liên hệ chặt chẽ với nhau hết sức logíc và hợp lý.
2. Chủ thể nào có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế?
2.1. Các quốc gia:
Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia đều có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế. Tuy nhiên, trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế nhiều trường hợp quốc gia có thể từ chối hoặc chuyển cho một quốc gia (Ví dụ: Hiệp ước về liên minh thuế quan giữa Thụy Sỹ và Liechtenstein năm 1923 ghi nhận Thụy Sỹ sẽ ký các điều ước quốc tế nhân danh Liechtenstein), hay tổ chức quốc tế khác thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế (Ví dụ: Trong một số trường hợp nhất định cộng đồng Châu âu có thể thay mặt cho các quốc gia thành viên ký kết một số điều ước quốc tế nhất định).
2.2. Các tổ chức quốc tế:
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình các tổ chức quốc tế sẽ tiến hành ký kết các điều ước quốc tế xuất phát từ quyền năng chủ thể luật quốc tế của mình.
Một số thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế như tòa thánh Vaticăng, Đài Loan, Hồng Kông, Ma cao…cũng tham gia ký kết một số điều ước quốc tế nhất định.
Khi ký kết các điều ước quốc tế, các chủ thể thông qua các đại diện của mình là đại diện đương nhiên, không cần thư ủy nhiệm, bao gồm:
- Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, bộ trưởng bộ ngoại giao trong mọi hoạt động liên quan đến việc ký kết điều ước quốc tế;
- Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế giữa nước cử cơ quan đại diện và nước sở tại;
- Những người thay mặt cho quốc gia tại các hội nghị quốc tế hoặc tại tổ chức quốc tế.
Ngoài các đại diện nêu trên, những người đứng đầu các bộ hay cơ quan ngang bộ cũng có quyền ký các điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực mà mình quản lý. Ngoài ra, đối với các đại diện phải có thư ủy nhiệm khi tham gia quá trinhd ký kết điều ước quốc tế thì phải xuất trình thư ủy nhiệm.
3. Trình tự ký kết ĐƯQT được thực hiện như thế nào?
3.1. Đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản điều ước
Đàm phán là quá trình thoả thuận, thương lượng để tiến tới xác định quyền và nghĩa vụ của các bên ghi nhận trong nội dung của văn bản điều ước. Có thể tiến hành đàm phán theo các cách thức như đàm phán trên cơ sở của dự thảo văn bản điều ước đã chuẩn bị trước của mỗi bên hay một bên hoặc cùng đàm phán để trực tiếp xây dựng văn bản điều ước.
Nếu đàm phán thành công, văn bản dự thảo điều ước sẽ được soạn thảo chính thức để các bên thông qua. Việc soạn thảo văn bản điều ước sẽ do một cơ quan có thẩm quyền được các bên lập ra (hoặc thừa nhận) tiến hành hoặc do một cơ quan bao gồm đại diện của các bên tiến hành.
Thông qua văn bản điều ước là thủ tục không thể thiếu. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, có nhiều cách để thông qua văn bản điều ước, như biểu quyết, thoả thuận miệng. Văn bản đã được các bên nhất trí thông qua là văn bản cuối cùng, các chủ thể kết ước không được đơn phương sửa đổi, chỉnh lý hoặc bổ sung mới.
3.2. Ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
Bản chất của các bước ký, phê duyệt, phê chuẩn hay gia nhập điều ước là hành vi nhằm thực hiệ sự ràng buộc quốc gia với điều ước quốc tế và có giá trị tạo ra hiệu lực thi hành của điều ước đó.
3.2.1. Các hình thức ký kết điều ước quốc tế.
Có ba hình thức ký kết điều ước như sau:
- Ký tắt: Ký của các vị đại diện của các bên tham gia đàm phán xây dựng văn bản điều ước nhằm xác nhận văn bản dự thảo điều ước. Ký tắt chưa làm điều ước phát sinh hiệu lực.
- Ký ad referendum: Ký của vị đại diện với điều kiện có sự đồng ý tiếp sau đó của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia. Hình thức ký này có thể làm phát sinh hiệu lực cho điều ước nếu các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tỏ rõ sự chấp thuận sau khi ký ad referendum.
- Ký đầy đủ (ký chính thức): Ký của vị đại diện của các bên vào văn bản dự thảo điều ước. Sau khi ký đầy đủ điều ước có thể phát sinh hiệu lực.
Trong các hình thức ký nêu trên, ký đầy đủ là hình thức ký phổ biến nhất và được áp dụng cho cả điều ước song phương và điều ước quốc tế đa phương. Tuy nhiên, hành vi ký đã thể hiện rõ ràng ý định của quốc gia ký trong việc ràng buộc với điều ước quốc tế sau này nên trong thời gian điều ước chưa có hiệu lực, quốc gia đó không được có những hành vi có thể làm ảnh hưởng đến mục đích và đối tượng của điều ước quốc tế.
Các điều ước quốc tế đa phương có thể có quy định về thời điểm mở ra để ký không giống nhau. Sau thời điểm này, quốc gia chỉ có thể trở thành thành viên của điều ước đó bằng cách gia nhập (Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948). Một số điều ước đa phương về nhân quyền lại thường không ấn định thời điểm này.
3.2.2. Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế:
– Phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế là những hành vi do quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế tiến hành nhằm xác nhận sự đồng ý ràng buộc với một điều ước quốc tế nhất định. Cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đều ghi nhận giá trị pháp lý ngang nhau của hành vi phê chuẩn và phê duyệt điều ước quốc tế. Sự khác nhau căn bản giữa hai hành vi này là ở thẩm quyền tiến hành hai hành vi trên và nội dung của điều ước quốc tế đề cập. Việc áp dụng thủ tục phê chuẩn hay phê duyệt đối với một điều ước quốc tế thường do các bên thỏa thuận và được ghi rõ ngay trong nội dung của văn bản điều ước.
– Gia nhập điều ước quốc tế là hành động của một chủ thể luật quốc tế đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước quốc tế đa phương đối với chủ thể đó. Việc gia nhập thường được đặt đối với quốc gia khi thời hạn ký kết điều ước đã chấm dứt hoặc điều ước đã có hiệu lức mà quốc gia đó chưa phải là thành viên. Về thủ tục gia nhập điều ước quốc tế, những điều ước quốc tế nào được gia nhập hoặc không được gia nhập phụ thuộc vào quy định cụ thể của điều ước đó hoặc phụ thuộc vào các thành viên của điều ước. Thông thường thủ tục gia nhập được tiến hành theo các cáh sau: gửi công hàm xin gia nhập hoặc ký trực tiếp vào văn bản điều ước.
3.3. Bảo lưu điều ước quốc tế
3.3.1. Khái niệm
– Bảo lưu điều ước quốc tế là hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số điều khoản nhất định của điều ước. Những điều khoản đó gọi là những điều khoản bị bảo lưu.
– Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế ghi nhận “Bảo lưu điều ước quốc tế là hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặ gia nhập điều ước đó, nhằm qua đó laọi trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số quy định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó”. Như vậy, bảo lưu được thừa nhận là quyền của các chủ thể luật quốc tế, tuy nhiên quyền này không phải là tuyệt đối. Quốc gia có thể đưa ra tuyên bố bảo lưu vào thời điểm quốc gia thực hiện các hành vi nhằm xác nhận sự ràng buộc của một điều ước đối với quốc gia đó.
– Cũng theo Công ước Viên 1969, quốc gia chỉ được phép đưa ra tuyên bố bảo lưu khi sự bảo lưu đó:
- Không bị cấm ngay trong điều ước (Ví dụ: Công ước Luật Biển cấm các quốc gia bảo lưu bất kỳ điều khaỏn nào của Công ước);
- Phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước;
- Việc bảo lưu điều ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện đối với các điều ước quốc tế đa phương;
- Đối với các điều ước quốc tế song phương, việc một bên đưa ra tuyên bố bảo lưu sẽ được coi như một đề nghị thỏa thuận lại, ký kết điều ước mới.
3.3.2. Trình tự thực hiện bảo lưu
– Trong trường hợp điều ước quốc tế quy định rõ điều khoản nào được bảo lưu thì việc bảo lưu đới với điều khoản đó không cần tới sự đồng ý rõ ràng và riêng biệt từ phía các quốc gia ký kết khác. Khi đó, quốc gia sẽ chỉ tuyên bố bảo lưu trong phạm vi mà điều ước cho phép.
– Riêng với trường hợp điều ước quốc tế không có điều khoản quy định liên quan đến bảo lưu thì: Việc bảo lưu phải được tất cả các quốc gia thành viên chấp nhận nếu số quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điều ước là điều kiện dẫn tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối với điều ước.; một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu; nếu điều ước quốc tế là văn kiện về thành lập tổ chức quốc tế thì bảo lưu phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó.
– Việc tuyên bố bảo lưu, sự phản đối bảo lưu và sự đồng ý với bảo lưu phải được thể hiện dưới hình thức văn bản và thông báo một cách công khai cho các quốc gia thành viên, riêng trường hợp đồng ý bảo lưu có thể được thể hiện dưới dạng im lặng.
– Quốc gia tuyên bố bảo lưu có quyền rút bảo lưu trong bất kỳ thời gian nào. Trong trường hợp này, sự đồng ý từ phía các quốc gia công nhận bảo lưu là không cần thiết.
– Tuyên bố về phản đối bảo lưu cũng có thể được quốc gia tuyên bố hủy bỏ vào bất kỳ thời gian nào nhưng phải đựoc thể hiện dưới hình thức văn bản.
3.3.3 Hệ quả pháp lý của bảo lưu
Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước quốc tế, nhưng về tổng thể quan hệ giữa các quốc gia thành viên của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu.
Theo đó:
- Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu được thực hiện bằng các điều ước quốc tế, trừ các điều khoản liên quan đến bảo lưu.
- Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu vẫn được điều chỉnh bằng điều ước quốc tế đó, không loại trừ các điều khoản bảo lưu không được chấp nhận. Tuy nhiên, từ việc phản đối bảo lưu do một quốc gia đưa ra, cũng có thể làm cho quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu không còn tồn tại quan hệ điều ước. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của mỗi bên.