- 1. Thẩm quyền kí kết ĐƯQT của các quốc gia
- 2. Thẩm quyền kí kết ĐƯQT của các tổ chức quốc tế
- 3. Bước đàm phán, soạn thảo và thông qua vân bản điểu ước trong trình tự ký kết ĐƯQT
- 4. Ký, phê chuẩn, phé duyệt, gìa nhập điều ước quốc tế
- 5. Bảo lưu điều ước quốc thế theo luật
- 6. Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến điều ước quốc tế
- 6.1 Tên gọi của điều ước quốc tế là gì?
- 6.2 Cơ cấu của điều ước quốc tế gồm những gì?
- 6.2 Ngôn ngữ của điều ước quy định thế nào?
1. Thẩm quyền kí kết ĐƯQT của các quốc gia
- Tất cả các quốc gia.
- Nước Nammibia do Hội đổng của Liên hợp quốc về Nammibia đại diện.
- Tất cả các quốc gia liên kết lự trị đã chọn chế độ này qua hành động lự quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê chuẩn theo Nghị quyết 15 ỉ4 của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đồ mà Công ước đề cập, ke cả thẩm quyền ký các hiệp ước vê vấn đề đó.
- Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà theo các văn bản liên kết có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước đồ cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về vấn đề đó.
- Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn toàn về nội trị được Liên hợp quốc thừa nhân nhưng chưa giành được nền độc lập hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết 1514 của Đại hội đổng và có thẩm quyền đối với các vấn để mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước vổ vấn đề đó.
- Các tổ chức quốc tế theo đúng Phụ lục IX.
Trong hầu hết các trường hợp, các quốc gia đều trực tiếp thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước qưốc tế. Tuy nhiên, pháp luật của một số quốc gia cũng như thoả thuận giữa các quốc gia là cơ sở để xuất hiện một số trường hợp thực hiện thẩm quyền ký kết điều ước quốc tê' tương đối đặc biệt:
Trường hợp thứ nhất: Quốc gia đại diện cho quốc gia khác
Trường hợp này xuất hiện khi có một thoả thuận giữa các quốc gia cho phép một quốc gia có thể đại diện cho một hoặc nhiều quốc gia khác trong những lĩnh vực cụ thể của quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ ký kết các diều ước quốc tê' nói riêng. Ví dụ, Hiệp ước vổ liên minh thuế quan giữa Thụy Sỹ và Liechtenstein ngày 29/3/1923 ghi nhận Thụy Sỹ sẽ ký kết các điều ước quốc tế nhân danh Liechtenstein. Tương tự là các trường hợp của Mỹ đối với Puerto Rico, Pháp đối với Andorra...
Trường hợp thứ hai: Quớc gia và tổ chức quốc tê' liên chíhh phủ.
Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế cũng có thể được quốc gia uỷ quyền cho một tổ chức quốc tế - đại diện cho quyền lợi của quốc gia ủy quyển trong quan hệ quốc tế. Sự uỷ quyền này phải được thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp lý quốc tế cụ thể. Hiệp ước thành lập cộng đổng châu Âu có ghi nhận, trong một số trường hợp nhất định, cộng đồng châu Âu có thể đại diện cho các quốc gia thành viên hoặc là một bên tham gia điều ước quốc tế. Ví dụ, Công ước về trợ cấp lương thực 1999 quy định: "Công ước sẽ phát sinh hiệu lực vào ngày ỉ 171Ị 999 giữa những chính phủ và tổ chức quốc tế liên chính phủ mà đến 3016!ỉ999 đã nộp ỉưu chiểu các ván kiện phê chuẩn, chấp nhận, phê duyệt, gia nhập hoặc áp dụng tạm thời Công ước bao gồm cả cộng đồng cháu Âu".
2. Thẩm quyền kí kết ĐƯQT của các tổ chức quốc tế
Thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế xuất phát từ quyền năng chủ thể luật quốc tế của các tổ chức quốc tế và thường được ghi nhận trong Hiến chương và các văn bản pháp lý khác của tổ chức quốc tố. Tổ chức quốc tế có thể ký kết các điều ước quốc tế với các quốc gia, kể cả quốc gia thành viên như các điều ước quốc tế về thuê trụ sở của tổ chức, các điều ước liên quan đến các khoản vay tín dụng mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các quốc gia... Tổ chức quốc tế cũng có thể ký kết các điều ước quốc tê' với các tổ chức quốc tê' khác như các hiệp định chuyên môn được ký kết giữa Liên hợp quốc với Tổ chức lao động quốc tế, với Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế... Tuy nhiên, do tính chất quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế nên thẩm quyền ký kết điều ước quôc tê của chủ thể này không giông như thẩm quyền của các quốc gia. Vì vậy, có những loại điều ước quốc tê' quy định không có sự tham gia của các tổ chức quốc tế.
Thực tiễn của hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế còn cho thấy một số thực thể như Toà thánh Vaticăng, Hồng Kông, Ma Cao... cũng tham gia ký kết một sô' điểu ước quốc lê' nhất định. Toà thánh Vaticăng tham gia ký 4 công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh năm 1949, ký và phê chuẩn Công ước ViỄn năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia... Điổu 151 Luật cơ bản của Hổng Kông và Điểu 136 Luật cơ bản của Ma Cao quy định, chính quyền hành chính của hai vùng lãnh thổ này có thể tiếp tục gìn giữ và phát triển các quan hệ đối ngoại cũng như ký kết và thực hiện các đicu ước quốc tê' với nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tê' liên chính phủ trong những lĩnh vực thích hợp như kinh tế, tài chính, hàng hải, viễn thông, du lịch, thể thao...
Khi ký kết điều ước quô'c tế, các chủ thể thông qua đại diện của mình là đại diện đương nhiên mà thông lệ quốc tế và thực tiễn pháp luật của các quốc gia đã xác định là những người không cần thư uý nhiệm, bao gổm:
- Nguyên thủ quốc gia, người đứng đắu chính phủ, bô trưởng bộ ngoại giao trong mọi hành động liên quan đến việc ký kết điều ước quốc tế.
- Người đứng đầu các cơ quan đại diện ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tê' giữa nước cử cơ quan đại diện và nước sờ tại.
- Những người thay mặt cho quốc gia mình tại một hội nghị quốc tế hoặc lại tổ chức quốc tế trong việc thông qua văn bản của một điều ước quốc tế trong khuôn khổ của hội nghị hoặc tổ chức đó.
Ngoài ra, những người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ có quyền ký kết nhưng điều ước quốc tế thuộc lĩnh vực của bộ, ngành cũng không cần thư uỷ nhiệm.
Đối với những đại diện phải có thư uỷ nhiệm đổ tham gia vào quá trình ký kết điều ước quốc tế thì họ phải xuất trình thư uỷ nhiệm thích hợp. Theo Điều 8 Công ước Viên nãm 1969, nếu một điều ước quốc lê' được ký kết hoặc thông qua bởi những người không đủ tư cách đại diện cho quốc gia mình thì điểu ước đó có thể sẽ không có hiệu lực.
3. Bước đàm phán, soạn thảo và thông qua vân bản điểu ước trong trình tự ký kết ĐƯQT
Đàm phán là quá trình thoả thuận, thương lượng để tiến tới xác định quyền và nghĩa vụ của các bên ghi nhận trong nội dung của vãn bản điều ước. Có thể tiến hành đàm phán theo các cách thức như đàm phán trên cơ sở của dự thảo văn bản điều ước đã chuẩn bị trước của mỗi bên hay một bên hoặc cùng đàm phán để trực tiếp xây dựng văn bản điều ước.
Nếu đàm phán thành công, văn bản dự thảo điều ước sẽ được soạn thảo chính thức để các bên thông qua. Việc soạn thảo văn bản điều ước sẽ do một cơ quan có thẩm quyền được các bên lập ra (hoặc thừa nhận) tiến hành hoặc do một cơ quan bao gồm đại diện của các bên tiến hành.
Thông qua văn bản điều ước là thủ tục không thể thiếu. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, có nhiều cách để thông qua văn bản điều ước, như biểu quyết, thoả thuận miệng. Văn .bản đã được các bên nhất trí thông qua là văn bản cuối cùng, các chủ thể kết ước không được đơn phương sửa đổi, chỉnh lý hoặc bổ sung mới.
4. Ký, phê chuẩn, phé duyệt, gìa nhập điều ước quốc tế
* Các hình thức ký điều ước quốc tế
Có ba hình thức ký điều ước như sau:
Ký tắt: Ký của các vị đại điện của các bôn tham gia đàm phán xây dựng vãn bản điều ước nhàm xác nhận vãn bản dự thảo điều ước. Ký tắt chưa làm điểu ước phát sinh hiệu lực
- Ký ad rcĩerendum: Ký của vị đại diện với điều kiện có sự đồng ý tiếp sau đó của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia. Hình thức ký này có thể làm phát sinh hiệu lực cho điều ước nếu các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tỏ rõ sự chấp thuận sau khi ký ad referendum.
- Ký đầy đủ (ký chính thức): Ký của vị đại diện của các bên vào văn bản dự thảo điều ước. Sau khi ký đầy đủ điều ước có thể phất sinh hiệu lực.
Trong các hình thức ký nên trên, ký đầy đủ là hình thức ký phổ biến nhất và được áp dụng cho cả diều ước song phương và điểu ước quốc tế đa phương. Tuy nhiên, hành vi ký đã thể hiện rõ ý định của quốc gia ký trong việc ràng buộc với điều ước quốc tế sau này nên trong thời gian điều ước chưa có hiệu lực, quốc gia đó không được có những hành vi có thổ làm ảnh hưởng đến mục đích và đối tượng của điều ước quốc tế .
Các điểu ước quốc tê' da phương có thể có quy định về thời điểm mở ra để ký không giống nhau. Sau thời điểm này, quốc gia chỉ có thể trở thành thành viên của điều ước đó bằng cách gia nhập (Công ước về ngăn ngừa và trùng trị tội diệt chủng nãm 1948). Một số điếu ước đa phương về nhân quyền lại thường không ấn định thời điểm này.
* Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
Phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế là những hành vi pháp lý của một chủ thể luật quốc tế. theo đó chủ thể này xác nhận sự đổng ý ràng buộc với một điểu ước quốc tế nhất định. Việc có áp dụng hình thức phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế hay không được ghì nhận rõ ràng trong điều ước. Một số loại điều ước đa phương toàn cầu. đa phương khu vực. các điều ước về các vấn để biên giới, lãnh thổ, tương trợ tư pháp... thường quy định thủ thục phê chuẩn hoặc phê duyệt. Công ước Viên năm 1969 có quy định các trường hợp điểu ước áp dụng hình thức phê chuẩn thể để thể hiện sự đồng ý ràng buộc đối với điều ước quốc tế của một quốc gia.
Quỵ định về việc phải phê chuẩn cho phép cấc quốc gia có thời gian và cơ hôi để xcm xét hoặc kiểm tra lại việc ký kết của những đại diện của quốc gia mình và ban hành những văn bản pháp luật cần thiết cho việc thực thi điều ước quốc tế đó ở Irong nước. Đồng thời, hoạt động phê chuẩn cũng thể hiện vai trò của các cơ quan có thẩm quyẻn đối với hoạt động ký kết, gia nhập điều ước quốc tế của nhà nước đó.
Bản chất của việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc với một điều ước quốc tế được biểu thị bàng việc phê duyệt cũng tương tự như hành vi phê chuẩn.
Gia nhập điều ước quốc tê' là hành động cửa một chủ thể luật quốc tế đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước quốc tế đa phương đối với chủ thể đó. Việc gia nhập thường được đặt ra đối với quốc gia khi thời hạn ký kết điều ước đã chấm dứt hoặc điều ước đã có hiệu lực mà quốc gia đó chưa phải là thành viên. Thủ tục gia nhập được quy định cụ thể trong phần cuối cùng của điều ước đó. Giống như phê chuẩn hoặc phê duyệt, gia nhập thường được thực hiện thông qua việc gửi văn kiện gia nhập đến quốc gia hoặc cơ quan của tổ chức quốc tê' có chức nãng bảo quản điều ước quốc tế đó. Ngoại trừ một số điều ước quốc tế nhất định, hầu hết các điều ước đa phương phổ cập đều cho phép các quốc gia gia nhập, ví dụ, Công ước quốc lê' vé quyên tre em năm 19X9, Còng ước quốc tế ve loại trừ các hình thức phân biệt chung tộc, Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên năm 1963 ve quan hệ lãnh sự... đểu quy dịnh vể việc cho phép các quốc gia gia nhập.
Trừ khi điểu ước có quy định khác, thời điểm xác nhận sự đồng ý ràng buộc đối với điều ước quốc lế bằng hình thức phê chuẩn, phê duyệt hoạc gia nhập có thổ được tính khi các bên ký kết trao đổi các văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập; khi quốc gia ký kết nộp lưu chiểu các văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập tại cơ quan lưu chiểu và khi thông báo những vãn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập cho các quốc gia kết ước hoặc cho cơ quan lưu chiểu.
5. Bảo lưu điều ước quốc thế theo luật
Theo Công ước Viên nãm 1969 vể luật đi cu ước quốc tế, thì ''Bảo lưu điều ước quốc tế là hành (lộng đơn phương bất kẽ’ cách viết hoặc tên gọi như thế nào của một quốc gia đưa ra khi kỷr phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước đó, nhằm qua dó loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một sổ quy định của diều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đố",
Bảo lưu (nếu có) chỉ có thể tiến hành vào thời điểm quốc gia thực hiện các hành vi nhầm xác nhận sự ràng buộc của một điều ước đổi với quốc gia đó.
*Điều khoản bảo lưu
Phù hợp với mục đích của việc ký kết điểu ước quốc tế và lợi ích của các quốc gia thành vièn, luật điều ước quốc tế thừa nhận bảo lưu là quyền của các chủ thể khi tham gia ký kết điều ước quốc tê' nhưng quyền này không phải là tuyệt đối mà nó bị hạn chê' trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, một quốc gia sẽ không được phép đưa ra tuyên bô' bảo lưu nếu liên quan đến:
- Trường hợp điều ước quốc tế cấm bảo lưu;
- Trường hợp bảo lưu không phù hợp với đó'i tượng và mục đích của điều ước.
Tương tự, quyền bảo lưu điẩu ước quốc tế của một quốc gia cũng sẽ bị hạn chế khi trong nội dung của điều ước đó chỉ cho phép bảo lưu đối với những điều khoản nhất định.
Trong thực tiễn thường có thể có hai dạng quy định liên quan đến vấn đề bảo lưu điều ước, đó là trường hợp điểu ước có điều khoản quy định về bảo lưu và trường hợp điều ước không có điều khoản quy định về bảo lưu. Ở trường hợp thứ nhất, nếu điều ước cho phép bảo lưu hoặc chỉ được bảo lưu những điều khoản cụ thể thì những vấn đề bảo lưu sẽ tuân theo các quy định của chính điểu ước quốc tế đó. Còn với trường hợp thứ hai, nếu điều ước không có điều khoản quy định về bảo lưu thì Công ước Viên năm 1969 quy định:
- Việc bảo lưu phải được tất cả các bên chấp nhận nếu sớ quốc gia đàm phán có hạn hoặc việc thi hành toàn bộ điểu ước giữa tất cả các bên là điéu kiện cần thiết dẫn tới sự chấp nhận ràng buộc của các bên đối với điểu ước.
- Một bảo lưu coi như được một quốc gia chấp nhận nếu quốc gia đó không phản đối trong vòng 12 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu.
- Nếu điều ước là văn kiện thành lập tổ chức quốc tế thì một bảo lưu cần được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức đó.
Ngoài các quy định nêu trên về việc bảo lưu điều ước quốc tế, cần lưu ý rằng, mặc dù Công ước Viên năm 1969 không quy định cụ thể nhưng trong thực tế, bảo lưu không đặt ra đối với các điều ước quốc tế song phương vì các thoả thuận, cam kết trong quan hệ song phương hầu như chỉ liên quan đến chính hai bèn chủ thể, thông qua các điều khoản trong điều ước để xác lạp rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên. Vì vậy, nếu một trong hai bên đưa ra bảo lưư sẽ dân đẽh sự tôn hại cho lợi ích của bên kia. Sự bất đồng (nếũ có) về những điều khoản cụ thể sẽ đòi hỏi các bên phải tiến hành thương lượng lại thì mới có thể đạt được những thoả thuận để hình thành nên văn bản điều ước mà các bên mong muốn thiết lập.
* Thủ tục bảo lưu
Do bảo lưu có ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị hiệu lực của các điều khoản của điều ước quốc tế trong quan hệ giữa các bên nên theo quy định của Cồng ước Viên năm 1969, việc tuyên bố bảo lưu, rút bảo lưu, chấp thuận hoặc phản đối bảo lưu đều phải được trình bày bằng văn bản và thông báo cho các bên liên quan.
* Hệ quả và ý nghĩa pháp ỉý của báo lưu
Bản chất của bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị bảo lưu ra khỏi nội dung của một điều ước nhưng về tổng thể, quan hệ giữa các thành viên của một điều ước sẽ thay đổi trong phạm vi có bảo lưu. Sự thay đổi liên quan đến bảo luu khác nhau, tùy thuộc vào việc phản đối hoặc chấp thuận bảo lưu. Từ việc phản đối bảo lưu do một quốc gia đưa ra, có thể làm cho quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu không có quan hệ điều ước hoặc không áp dụng điểu khoản bảo lưu trong quan hệ giữa hai bên, còn đối với các điều khoản còn lại, quan hệ điều ước vẫn diễn ra bình thường.
Đối với nhiều thành viên, bảo lưu là giải pháp pháp lý để giải quyết hài hoà lợi ích riêng của quốc gia với lợi ích khi tham gia điều ước, qua đổ góp phần tăng cường số lượng thành viên tham gia để điều ước có điều kiện hình thành và phát huy vai trò điều chỉnh các quan hệ quốc tê' nảy sinh.
6. Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến điều ước quốc tế
6.1 Tên gọi của điều ước quốc tế là gì?
Điều ước quốc tế là tên khoa học pháp lý chung để chỉ các văn bản pháp luật quốc tê' do hai hay nhiều chủ thể luật quốc tế ký kết. Trong từng quan hệ điều ước cụ thể, điều ước có thể được gọi bằng rất nhiều tên gọi khác nhau như hiệp ước, hiệp định, công ước, hiến chương, quy chế...
Luật điều ước quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều không có những quy định cụ thể nhằm ấn định rõ tên gọi cho từng loại điều ước. Trong thực tiễn, có những điều ước có cùng nội dung và tính chất nhưng giữa các văn bản điều ước này lại có thể có tên gọi khác nhau. Việc xác định tên gọi cụ thể cho một điều ước hoàn toàn do các chủ thể ký kết điều ước đó thoả thuận quyết định.
6.2 Cơ cấu của điều ước quốc tế gồm những gì?
Hầu hết các điều ước quốc tế song phương và đa phương thường được kct cấu thành ba phẩn:
- Phần lời nói đầu: Phần này không được chia thành từng chương, từng điểu hoặc tùng khoản. Trong phần lời nói đẩu không chứa đựng các quy phạm cụ thể xác lạp quyền và nghĩa vụ cho các ben mà chỉ nêu lý do ký kết, mục đích ký kết, tên của các bên tham gia ký kết...
- Phần nội dung chính: Đây là phần chính, rất quan trọng của điểu ước. Nó thường được chia thành các phần, các chương, các điều nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hợp tác mà các bên quan tâm.
- Phần cuối cùng: Phần này thường bao gôm các điều khoản quy định về thời đicm, thời hạn có hiệu lực của điều ước, ngôn ngữ soạn thảo điều ước, vấn đề sửa đổi, bổ sung, cơ quan lưu chiểu điều ước...
6.2 Ngôn ngữ của điều ước quy định thế nào?
Việc lựa chọn một hoặc một số ngôn ngữ phù hợp cho công việc soạn thảo văn bản điểu ước và thổ hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia ký kết hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Các vãn bản điều ước soạn thảo bằng ngôn ngữ đã được lựa chọn đều là văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau. Các ngôn ngữ được lựa chọn trong văn bản điều ước thường là ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên hợp quốc (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng A Rập) hoặc ngón ngữ của các bên ký kết (đối với điều ước song phương). Theo quy định tại Điều 5 Luật điểu ước quốc tê' năm 2016, "Điều ước quốc tế hai hên phải có văn bản bẵng tiếng Việt, trừ trường hợp có thoả thuận khác với hên ký kết nước ngoài”.
Luật Minh Khuê (Sưu tầm và biên tập)