1. Thẩm quyền ký văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên thuộc về ai?

Thẩm quyền ký văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên được rõ ràng quy định tại khoản 2 Điều 64 của Luật Điều ước quốc tế 2016. Theo quy định này, quy trình đối ngoại liên quan đến việc phê chuẩn, phê duyệt, và gia nhập điều ước quốc tế được thực hiện như sau:
Bước 1: Bộ Ngoại giao thông báo cho bên ký kết nước ngoài hoặc cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên về việc phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản của Quốc hội, Chủ tịch nước, hoặc Chính phủ về việc này.
Bước 2: Thẩm quyền ký văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên được Chủ tịch nước đảm nhận theo quy định tại văn bản Luật Điều ước quốc tế 2016. Theo đó, Chủ tịch nước không chỉ là người ký văn kiện mà còn có trách nhiệm đảm bảo nội dung của văn kiện này đầy đủ và chính xác.
Văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên cần bao gồm các thông tin quan trọng nhằm mô tả rõ quá trình phê chuẩn và phê duyệt của quốc gia. Trong đó, nội dung của văn kiện này cụ thể bao gồm:
- Tên Điều ước quốc tế: Xác định tên của điều ước quốc tế mà Chủ tịch nước đang ký, nhằm định rõ phạm vi và nội dung cụ thể của thỏa thuận.
- Thời gian ký: Ghi chép ngày và giờ cụ thể khi văn kiện được ký, nhằm xác định thời điểm cụ thể quốc gia cam kết với điều ước quốc tế.
- Địa điểm ký:* Xác định địa điểm cụ thể nơi Chủ tịch nước thực hiện việc ký văn kiện, tạo ra một bản ghi chính xác về vị trí và điều kiện môi trường của sự kiện này.
- Các thông tin cần thiết khác: Bao gồm mọi thông tin quan trọng khác liên quan đến quá trình phê chuẩn và phê duyệt, như các điều khoản và điều kiện đặc biệt, sự đồng thuận của các bên liên quan, và các ghi chú bổ sung cần thiết.
Với việc thực hiện đầy đủ các yếu tố trên, Chủ tịch nước không chỉ thể hiện sự cam kết của quốc gia đối với điều ước quốc tế mà còn đảm bảo tính minh bạch và rõ ràng trong quá trình thực hiện các cam kết này.
Bộ Ngoại giao phối hợp với cơ quan đề xuất tiến hành thủ tục trao đổi văn kiện phê chuẩn với bên ký kết nước ngoài, đặc biệt trong trường hợp điều ước quốc tế hai bên có quy định hoặc thỏa thuận với bên ký kết nước ngoài về việc hoàn thành thủ tục này để điều ước quốc tế có hiệu lực.
Bước 3: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ký văn kiện phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhiều bên và gửi đến cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên.
Do đó, theo quy định, Chủ tịch nước không chỉ là người ký văn kiện phê chuẩn mà còn là người chịu trách nhiệm về nội dung quan trọng của văn kiện này, đảm bảo rằng mọi thông tin cần thiết đều được thể hiện rõ ràng và chính xác.
 

2. Cơ quan nào thực hiện lưu trữ văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên ?

Việc lưu trữ văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên đã được chi tiết quy định tại khoản 1 Điều 58 của Luật Điều ước quốc tế 2016. Theo quy định này, quá trình lưu trữ điều ước quốc tế được thực hiện như sau:
Bộ Ngoại giao là cơ quan chịu trách nhiệm lưu trữ bản chính của điều ước quốc tế hai bên, cũng như bản sao của điều ước quốc tế nhiều bên mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, được cơ quan lưu chiểu chứng thực. Ngoài ra, Bộ Ngoại giao còn lưu trữ văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế, giấy ủy quyền đàm phán và ký điều ước quốc tế, cùng các văn kiện khác có liên quan đến quá trình thương lượng và thực hiện điều ước quốc tế.
Đối với các văn kiện từ phía nước ngoài, cơ quan đề xuất có trách nhiệm gửi Bộ Ngoại giao bản chính hoặc bản sao được chứng thực và bản dịch bằng tiếng Việt của điều ước quốc tế, giấy ủy quyền đàm phán, ký điều ước quốc tế, theo thời hạn quy định tại Điều 26 và Điều 46 của Luật này.
Do đó, theo quy định, việc lưu trữ văn kiện phê chuẩn điều ước quốc tế hai bên là trách nhiệm của Bộ Ngoại giao, đảm bảo sự an toàn và chính xác của tất cả các tư liệu quan trọng liên quan đến các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
 

3. Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế nào?

Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế của Quốc hội được quy định rõ trong khoản 1 Điều 29 của Luật Điều ước quốc tế 2016. Theo quy định này, Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn các loại điều ước quốc tế quan trọng đối với quốc gia. Nội dung cụ thể của thẩm quyền phê chuẩn và văn bản phê chuẩn điều ước quốc tế được mô tả như sau:
Quốc hội phê chuẩn các loại điều ước quốc tế sau đây, đặt ra các điều kiện và giới hạn cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia và đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của nền pháp luật:
- Điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, và chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực, với điều kiện rằng việc tham gia, rút khỏi tổ chức đó ảnh hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ;
- Điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Điều ước quốc tế có quy định trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác.
Chủ tịch nước cũng có thẩm quyền phê chuẩn một số điều ước quốc tế theo quy định tại Điều 28 của Luật, trừ các điều ước quốc tế quy định tại khoản 1 Điều 29.
Văn bản phê chuẩn điều ước quốc tế được yêu cầu bao gồm các nội dung quan trọng như tên điều ước quốc tế, thời gian và địa điểm ký, cũng như nội dung bảo lưu, chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài, tuyên bố đối với điều ước quốc tế nhiều bên và các vấn đề cần thiết khác. Điều này nhằm đảm bảo tính minh bạch và quản lý hiệu quả của các thỏa thuận quốc tế mà Quốc hội và Chủ tịch nước đã phê chuẩn.
Do quy định của pháp luật, Quốc hội được ủy thẩm quyền phê chuẩn một số loại điều ước quốc tế quan trọng đối với quốc gia. Cụ thể, theo quy định:
(1) Quốc hội phê chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, và chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này nhằm đảm bảo rằng quốc gia tham gia vào các hiệp ước và thỏa thuận quốc tế mà chúng ta cam kết đều phản ánh đúng chủ quan và lợi ích quốc gia.
(2) Quốc hội cũng có thẩm quyền phê chuẩn các điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực. Điều này đặt ra điều kiện rằng quốc gia chỉ tham gia hoặc rút khỏi tổ chức nếu việc này ảnh hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, và tiền tệ.
(3) Quốc hội quan tâm và phê chuẩn điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của luật và nghị quyết của chính Quốc hội.
(4) Nếu có điều ước quốc tế nào chứa đựng quy định trái với luật, nghị quyết của Quốc hội, Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn để bảo vệ sự nhất quán và hiệu lực của hệ thống pháp luật nội địa.
(5) Đối với điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác, Quốc hội cũng tham gia quyết định thông qua quy trình phê chuẩn, đảm bảo rằng các cam kết này được thực hiện trong bối cảnh pháp luật và chính trị nội địa. Như vậy, việc Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn đồng nghĩa với việc giữ vững quyền lực lập pháp và bảo vệ lợi ích quốc gia trong quá trình quan hệ quốc tế.
 

Xem thêm bài viết liên quan sau: Hiệu lực của điều ước quốc tế là gì ? Quy định về hiệu lực của điều ước quốc tế

Liên hệ đến hotline 19006162 hoặc gửi thư tư vấn đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để được tư vấn pháp luật nhanh chóng