Mục lục bài viết
1. Hiểu thế nào về đơn bãi nại?
Hiện tại, trong quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng như các văn bản có liên quan, không có quy định rõ về việc bãi nại hoặc đơn bãi nại. Tuy nhiên, bãi nại được hiểu là hành động rút lại yêu cầu khởi kiện vụ án hình sự của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại, trong trường hợp người đó đủ điều kiện như là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc người bị buộc tội...
Để rút lại yêu cầu khởi kiện, cá nhân cần phải làm đơn bãi nại và gửi đơn đó tới Tòa án, cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát. Trường hợp người rút đơn bãi nại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất,... thì họ có thể nhờ người đại diện theo pháp luật thực hiện việc bãi nại. Điều này cho phép bảo vệ quyền lợi và lợi ích của những người có đặc điểm đặc biệt và không đủ khả năng thực hiện các thủ tục pháp lý một cách độc lập.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bãi nại chỉ có thể xảy ra trong một số trường hợp cụ thể và theo quy định của pháp luật. Điều này nhằm đảm bảo tính công bằng và chính xác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên liên quan.
Việc đưa ra quy định rõ ràng và chi tiết về việc bãi nại và đơn bãi nại trong các văn bản pháp luật sẽ giúp tăng cường sự hiểu biết và thực thi đúng đắn của quyền lợi pháp lý cho những người có liên quan. Đồng thời, việc hỗ trợ người đại diện thực hiện việc bãi nại cho những đối tượng đặc biệt sẽ đảm bảo quyền được nghe và quyền tham gia vào quá trình tố tụng của họ, đồng thời đảm bảo tính công bằng và bảo vệ quyền lợi của mọi cá nhân trong hệ thống pháp luật.
2. Có thể áp dụng đơn bãi nại thời điểm nào trong một vụ án hình sự?
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bãi nại là hành động của người bị hại yêu cầu rút lại đơn khởi tố đã được nộp.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 của Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Bộ luật Tố tụng hình sự), định rõ các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu bị hại như sau: Chỉ có thể khởi tố vụ án hình sự đối với các tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu từ bị hại hoặc người đại diện của bị hại, trong trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc đã qua đời.
Theo quy định được nêu, không phải mọi vụ án hình sự đều được đình chỉ khi người bị hại nộp đơn bãi nại. Chỉ một số vụ án hình sự liên quan đến các tội danh sau đây mới được phép nộp đơn bãi nại để đình chỉ vụ án:
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội hiếp dâm (khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội cưỡng dâm (khoản 1 Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội làm nhục người khác (khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội vu khống (khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (khoản 1 Điều 226 Bộ luật Hình sự 2015).
Từ những quy định trên, ta có thể hiểu rằng, đơn bãi nại chỉ có thể đình chỉ những vụ án có thể được khởi tố dựa trên yêu cầu của người bị hại. Việc rút yêu cầu khởi tố là hoàn toàn tự nguyện, không có dấu hiệu ép buộc hay cưỡng bức. Điều này dẫn đến việc đình chỉ vụ án trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng của một vụ án hình sự, tức là bên gây thiệt hại (người đang bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc những người có liên quan khác trong vụ án) sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Trong những trường hợp nào cơ quan điều tra không có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự?
Căn cứ vào quy định tại Điều 153 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với mọi trường hợp có dấu hiệu tội phạm, trừ những trường hợp mà cơ quan đã được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát hoặc Hội đồng xét xử đang tiếp nhận, xử lý.
Chi tiết, các trường hợp sau đây được áp dụng:
- Cơ quan đã được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp được quy định tại Điều 164 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự trong các trường hợp sau:
+ Nếu Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự do cơ quan điều tra hoặc cơ quan đã được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
+ Nếu Viện kiểm sát trực tiếp nhận được tố giác, tin báo về tội phạm hoặc nhận được kiến nghị khởi tố;
+ Nếu Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố từ Hội đồng xét xử.
- Hội đồng xét xử có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Điều này đảm bảo quyền lợi của công dân và sự công bằng trong quá trình truy tố và xử lý các vụ án hình sự, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ pháp luật một cách hiệu quả và chính xác. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của Việt Nam đã quy định rõ các trường hợp mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân và sự công bằng trong quá trình truy tố và xử lý các vụ án.
Theo quy định tại Điều 153 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cơ quan điều tra được ủy quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả các trường hợp có dấu hiệu tội phạm, trừ những trường hợp đã được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát hoặc Hội đồng xét xử đang tiếp nhận và xử lý. Điều này nhằm đảm bảo sự độc lập và khách quan của cơ quan điều tra trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan đến vụ án. Cụ thể, Điều 153 quy định rằng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp được quy định tại Điều 164. Đồng thời, Viện kiểm sát cũng có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự trong một số trường hợp như hủy bỏ quyết định không khởi tố của cơ quan điều tra, tố giác, tin báo về tội phạm hoặc theo yêu cầu của Hội đồng xét xử. Nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm, họ cũng có quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố.
Xem thêm >> Mẫu bản tường trình sự việc gửi cơ quan công an điều tra và cách viết đơn bãi nại