1.Về chủ thể nộp đơn yêu cầu

Pháp luật Việt Nam hiện hành đề cập việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài bằng chế định “yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài”. Điều này cho thấy, tòa án Việt Nam chỉ thừa nhận giá trị pháp lý và thực thi bản án, quyết định dân sự do tòa án nước ngoài tuyên nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, khi quy định về chủ thể có quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định tại Điều 425 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nhà làm luật chỉ cho phép người được thi hành bản án, quyết định được nộp đơn yêu cầu. Tức là nếu người phải thi hành, vì một lý do nào đó, mong muốn và có yêu cầu được công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự này tại Việt Nam thì chỉ có cách tự nguyện thi hành mà không có cơ sở pháp lý điều chỉnh.

            Người viết muốn đặt ra một vấn đề pháp lý như sau: Tình trạng một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được xét xử ở nhiều nước là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Điều này dẫn đến tình trạng đa phán quyết, giả sử các phán quyết đó lần lượt được đưa ra tại nước A, nước B và nước C nhưng xét về tổng thể cũng như sự hợp lý thì người phải thi hành mong muốn bản án của tòa án nước A được công nhận tại Việt Nam, từ đó họ sẽ thi hành nghĩa vụ tại Việt Nam theo phán quyết của tòa án nước A mà không phải là phán quyết của tòa án nước B hay nước C. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì người phải thi hành không có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận. Một số ý kiến cho rằng tuy người phải thi hành không có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận nhưng có quyền nộp đơn yêu cầu không công nhận, như vậy cũng không thể cho là người này bị thiệt thòi. Tuy nhiên, người viết cho rằng quyền này cũng không thể xem là đối trọng với quyền được yêu cầu công nhận và cho thi hành bởi vì pháp luật Việt Nam đã chưa dự tính đến trường hợp người phải thi hành chấp nhận thi hành để vụ việc không bị bên kia tiếp tục khởi kiện tại Việt Nam hoặc khởi kiện tòa án một nước khác hoặc bên kia yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án của tòa án nước ngoài (bất lợi hơn cho người phải thi hành) nhằm tìm kiếm một phán quyết có lợi hơn cho họ.

            Cùng quy định về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, chúng ta có thể đối chiếu với Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang Nga người viết thấy rằng có sự khác biệt. Trong khi Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam tại Điều 425 và Điều 432 quy định có 2 chủ thể là “người được thi hành” và “người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan” có quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành thì Bộ luật Tố tụng dân sự nước Nga quy định người có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành là “người có liên quan”. Đồng thời, khi đối chiếu với các điều ước quốc tế, người viết thấy cũng có sự khác biệt. Theo quy định của Công ước La Haye về công nhận và cho thi hành quyết định của tòa án nước ngoài, người ta chỉ quy định bên đương sự tìm kiếm sự công nhận hoặc yêu cầu sự thi hành (the party seeking recognition or applying for enforcement) sẽ cung cấp một số tài liệu cho cơ quan có thẩm quyền, hoàn toàn không quy định chi tiết hay chỉ định rằng chỉ có người được thi hành mới có quyền nộp đơn yêu cầu. Ngoài Công ước Lahay, Công ước Brussels về thẩm quyền và sự thi hành phán quyết dân sự và thương mại cũng quy định chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là bất kỳ bên nào có liên quan (any interested party).

            Qua các phân tích vừa nêu, người viết cho rằng để cân bằng hơn về quyền lợi của hai bên người được thi hành và người phải thi hành, cũng như để hài hòa với pháp luật nước ngoài và điều ước quốc tế thì quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài tại Việt Nam nên đề cập trường hợp người phải thi hành có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành.

2. Về sự vắng mặt của người được thi hành trong phiên họp

Trong các giai đoạn của quá trình công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài thì phiên họp xét đơn được nhìn nhận là quan trọng bậc nhất. Các diễn biến của phiên họp có thể ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả cuối cùng. Các quy định về phiên họp này trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những thay đổi đáng kể so với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Về tổng thể, các quy định mới về phiên họp đã làm được hai điều. Thứ nhất, thể hiện được tư duy cải cách tư pháp, kiểm sát viên vắng mặt thì cuộc họp vẫn được tiếp diễn, không ảnh hưởng đến quyền lợi của những người có liên quan nhưng phía cơ quan kiểm sát vẫn có thể kiểm tra, giám sát cuộc họp thông qua hồ sơ tòa án cung cấp. Thứ hai, thể hiện được sự quyết đoán của nhà làm luật, điển hình trong tình huống người được thi hành vắng mặt lần thứ hai tại phiên họp thì việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự sẽ bị đình chỉ.

            Tuy quy định mới có nhiều ưu điểm nhưng trong ưu điểm ấy có sự bất hợp lý. Theo quy định của Điều 425 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, người có quyền nộp đơn yêu cầu công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là người được thi hành nhưng đến Điều 432 khi quy định về việc nộp đơn thì xuất hiện thêm người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan. Nếu không tính đến sự chưa thống nhất về chủ thể nộp đơn được quy định trong hai điều luật trên, người viết ghi nhận rằng người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan cũng có quyền nộp đơn, đây là quy định rất hay và hợp lý giúp những người này có cơ hội yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự kể cả trong trường hợp người được thi hành không chủ động nộp đơn.

            Lại di chuyển đến phiên họp xét đơn, tại Điều 438 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhà làm luật hoàn toàn không nhắc đến sự có mặt của người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan. Sự có mặt hay không có mặt của họ hoàn toàn không ảnh hưởng đến diễn biến phiên họp. Tính đến thời điểm này, người viết chưa nhận thấy sự bất hợp lý, bởi vì suy cho cùng kết quả mà người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan mong muốn có được cũng xuất phát từ kết quả của việc công nhận sau phiên họp, chỉ cần phiên họp tiến hành mỹ mãn thì sự hiện diện hay không hiện diện của họ không cần phải bức xúc. Điều đáng nói ở đây, nếu phiên họp không diễn ra như mong đợi thì tất cả những đặc ân mà pháp luật dành cho người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan cũng như công sức, tiền bạc của họ khi tiến hành nộp đơn sẽ tiêu tán.

            Tình huống hoàn toàn có thể xảy ra theo chiều hướng người phải thi hành không tự nguyện thực thi bản án, quyết định dân sự nhưng người được thi hành cũng không vì vậy mà yêu cầu tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành, điều này khiến cho khả năng thực hiện nghĩa vụ của người được thi hành với người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan bị giảm sút hoặc hoàn toàn triệt tiêu. Vì vậy người này nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự. Trong phiên họp lần thứ nhất, người được thi hành vắng mặt, theo quy định phiên họp sẽ được hoãn. Phiên họp lần thứ hai, người được thi hành tiếp tục không hiện diện, sự không hiện diện này có thể do khách quan hoặc chủ quan nhưng dù bất kỳ lý do nào thì việc xét đơn cũng bị đình chỉ. Kết luận, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoàn toàn không thu được bất kỳ lợi ích nào từ việc nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thì hành. Việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của một nhóm người, lại phụ thuộc vào sự có mặt hay không có mặt của một nhóm người khác là không hợp lý. Do đó, người viết cho rằng khi xét đến khả năng đình chỉ phiên họp do sự vắng mặt lần thứ hai của người được thi hành thì cần xem xét đến việc chủ thể nào là người nộp đơn yêu cầu, nếu người nộp đơn yêu cầu là người được thi hành thì vẫn giữ quy định hiện hành - đình chỉ phiên họp. Tuy nhiên, nếu người nộp đơn yêu cầu là người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan thì phiên họp vẫn được tiến hành.

3. Về các lý do từ chối công nhận và cho thi hành

Tòa án Việt Nam không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài vì tòa án nước ngoài không có thẩm quyền xét xử

            Lý do tòa án Việt Nam không thừa nhận giá trị pháp lý và từ chối cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài vì cho rằng tòa án nước ngoài không có thẩm quyền là lý do mới được đưa vào Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Có nhiều nhà nghiên cứu không đồng tình với lập luận này, cho rằng thẩm quyền của tòa án nước ngoài sẽ không phụ thuộc vào quan điểm của nhà làm luật Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định này cũng tồn tại trong Bộ luật Tố tụng dân sự Đài Loan, theo quy định tại khoản 1 Điều 402 Bộ luật này thì nếu như tòa án nước ngoài không có thẩm quyền để giải quyết vụ việc tính theo pháp luật Đài Loan thì phán quyết sẽ không được thừa nhận.

            Người viết đồng tình với quan điểm này, tức là tòa án Việt Nam có quyền cho rằng tòa án nước ngoài không đủ quyền hạn và chức năng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam chiếu theo Điều 439 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, từ đó không công nhận và cho thi hành các bản án và quyết định dân sự được tuyên ra.

            Bên cạnh đó, người viết cũng chưa đồng tình với khoản 2 Điều 440 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quan điểm đưa ra tại điều khoản này mang tính chủ quyền và sự thể hiện ý chí mạnh mẽ của nhà làm luật, đồng thời muốn bảo vệ đương sự nhưng sự hợp lý chưa ở mức tối đa. Nếu như đương sự có ý kiến phản đối thẩm quyền của tòa án nước ngoài thì việc này cũng là một vết tì khiến bản án, quyết định dân sự đó có thể không được công nhận tại Việt Nam. Một khi đã cân nhắc đến việc đương sự phản đối thẩm quyền của tòa án ước ngoài làm căn cứ không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự thì sự phản đối đó phải có căn cứ pháp lý, cần đề cập vấn đề này khi xem xét rằng tòa án nước ngoài có thẩm quyền hay không.

4.Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài ở Việt Nam

Do đòi hỏi của thực tiễn,vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài đã được đặt ra từ lâu trong khoa học pháp lý và trong pháp luật Việt Nam. Từ năm 1989 vấn đề này được ghi nhận một cách khái quát trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự (mục đ, khoản 1, Điều 3): "Những bản án, quyết định được thi hành theo pháp lệnh này bao gồm... bản án, quyết định của Toà án nưốc ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận". Quy định này tiếp tục được khẳng định trong Điều 3 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993.

Tối tháng 4 năm l993, với việc ban hành Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, những vấn đề về công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài ỏ Việt Nam mới được quy định đầy đủ, cụ thể và đồng bộ.

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các bản án, quyết định dân sự của Toà án nưốc ngoài bao gồm các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự và bản án, quyết định khác của Toà án nước ngoài mà pháp luật Việt Nam quy định là bản án, quyết định dân sự.

Pháp luật Việt Nam khẳng định bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành; Toà án Việt Nam chỉ công nhận và cho thi hành những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài trong khuôn khổ quy định của pháp luật Việt Nam và của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; Toà án Việt Nam xem xét cả việc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nưốc ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam khi có đơn yêu cầu không công nhận 

5. TA VN không công nhận và cho thi hành vì việc công nhận và cho thi hành trái với các nguyên tắc

Mặc dù đặt ra rất nhiều tiêu chuẩn để công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài như tính hiệu lực, sự đảm bảo trong tố tụng, sự cần thiết phải công nhận và cho thi hành nhưng tiêu chuẩn cuối cùng và quan trọng nhất được nhà làm luật Việt Nam xem trọng là việc công nhận và cho thực thi bản án, quyết định dân sự đó có trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hay không, chỉ cần việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự này trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì cho dù có đáp ứng hoàn mỹ các tiêu chí khác cũng bị khước từ. Tư duy tương tự cũng được đặt ra trong luật của các nước trên thế giới, điển hình như Nga, Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan. Tuy nhiên, trong tình huống này, nhà làm luật các nước có cách sử dụng từ ngữ khác với đồng nghiệp Việt Nam khi lấy lý do từ chối. Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga dùng cụm từ “việc thi hành bản án, quyết định trái với…”, Bộ luật Tố tụng dân sự Trung quốc dùm cụm từ: “việc áp dụng hoặc yêu cầu trái với…”. Bộ luật Tố tụng dân sự Đài Loan quy định: “Sự thi hành phán quyết được yêu cầu hoặc quá trình tố tụng trái với…”,  trong khi Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam dùng cụm từ “việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự trái với…”. Tuy nhìn sơ lược các cách dùng từ này không khác nhau nhưng đối với 3 Bộ luật nước bạn đã xoáy sâu vào nguyên nhân xuất phát từ giai đoạn, tức là nếu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài thì tất yếu sẽ xảy đến “việc thi hành”, “việc áp dụng” hay “sự thi hành phán quyết” và nếu những việc này không phù hợp nguyên tắc lập pháp nước họ, tất nhiên họ sẽ không chấp nhận. Trong khi đó,  Bộ luật Tố tụng dân sự của Việt Nam sử dùng cụm từ “việc công nhận và cho thi hành” về bản chất, việc công nhận và cho thi hành này là công việc nội bộ của Nhà nước Việt Nam, mà nếu là công việc nội bộ, do chính cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam đảm trách thì không thể trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Do vậy, người viết cho rằng, trong tình huống này, vế đầu của khoản 8 Điều 439 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015 nên sửa đổi theo hướng “Hậu quả của việc công nhận và cho thì hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài…” hoặc “ Sự thừa nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài….” .

            Tiếp tục nói đến vế sau của khoản 8 Điều 439 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nhà làm luật dùng lý do “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để từ chối công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Luật pháp các nước khác không đề cập cụm từ trên mà sử dụng cụm từ “xâm phạm đến chủ quyền hoặc đe dọa an ninh hoặc xâm hại trật tự công cộng” hoặc “vi phạm chủ quyền của Nhà nước, an ninh và lợi ích xã hội và công cộng của đất nước” hoặc “trái với chính sách công hoặc đạo đức”. Mỗi quốc gia có tiêu chí riêng để thừa nhận giá trị pháp lý của bản án, quyết định dân sự do tòa án nước ngoài tuyên. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là những quan điểm chủ đạo do nhà cầm quyền Việt Nam xây dựng và theo đuổi, các nguyên tắc này đóng vai trò định hướng cho quy định pháp luật tại Việt Nam, một nguyên tắc có thể được ghi nhận trong nhiều điều luật, thậm chí nhiều ngành luật khác nhau, có giá trị ảnh hưởng triệt để đến quá trình ban hành và áp dụng pháp luật. Người viết sẽ đồng tình hơn với lập luận tại khoản 8 Điều 439 nếu như nhà làm luật có quy định cụ thể và rõ ràng hơn giúp có cách hiểu thống nhất về “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Luật Minh Khuê ( sưu tầm và biên tập)