1. Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) là gì ?

Mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model - CAPM) mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi tức kỳ vọng đối với tài sản, đặc biệt là cổ phiếu. Rủi ro ở đây là rủi ro cố hữu đối với toàn bộ thị trường hoặc phân khúc thị trường. Loại rủi ro này là không thể dự đoán và không thể tránh được hoàn toàn, ví dụ như rủi ro thay đổi chính sách của chính phủ, rủi ro đến từ các điều kiện tự nhiên...

Mô hình định giá tài sản vốn là một trong những thay đổi quan trọng nhất trong lí thuyết danh mục đầu tư. CAPM lần đầu được nêu ra bởi Harry Markowitz năm 1952 đã làm thay đổi hoàn toàn các đánh giá trước đây của các nhà đầu tư về chứng khoán. Năm 1963 - 1964, William Sharpe, John Lintner, Jack Treynor và Jan Mossin đã tiếp tục phát triển và đơn giản hóa nghiên cứu của Harry Markowitz.

Bất cứ khi nào một khoản đầu tư được thực hiện, chẳng hạn vào cổ phiếu của một công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, sẽ có rủi ro là lợi tức thực tế của khoản đầu tư sẽ khác với lợi nhuận kỳ vọng. Các nhà đầu tư khi bắt đầu dự tính lợi nhuận cũng sẽ tính đến rủi ro của một khoản đầu tư, và mô hình CAPM là một phương pháp tính toán lợi tức cần thiết cho một khoản đầu tư dựa trên việc đánh giá rủi ro của nó.

 

2. Công thức CAPM

Công thức tính lợi nhuận kỳ vọng của một tài sản sẽ được tính như sau:

E(Ri) = Rf + βi [E(Rm) – Rf]

Trong đó: 

E(Ri): lợi tức mong muốn từ một tài sản i

E(Rm): lợi nhuận kì vọng của toàn bộ thị trường

Rf: lợi nhuận của tài sản phi rủi ro

βi (Hệ số beta): độ nhạy của chứng khoán đối với thay đổi trên thị trường

[E(Rm) – Rf]: phần bù đắp rủi ro thị trường

 

2.1. Lợi tức mong đợi từ tài sản (E(Ri))

Kí hiệu R hay E(Ri) đại diện cho lợi tức kỳ vọng của tài sản vốn theo thời gian, dựa trên tất cả các biến khác trong phương trình trên. "Lợi tức kỳ vọng" là một giả định dài hạn về cách một khoản đầu tư sẽ phát huy tác dụng trong toàn bộ vòng đời của nó.

 

2..2. Lợi nhuận của tài sản phi rủi ro (Rf)

Trong thực tế, không có thứ gọi là tài sản phi rủi ro. Tuy nhiên, nợ ngắn hạn từ chính phủ là một khoản đầu tư tương đối an toàn, và có thể xem như là một sự thay thế chấp nhận được cho tài sản phi rủi ro.

Ký hiệu Rf biểu thị cho lợi nhuận của tài sản phi rủi ro. Nó thường bằng với lợi tức của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm. Lãi suất phi rủi ro phải tương ứng với quốc gia nơi đầu tư được thực hiện và thời gian đáo hạn của trái phiếu phải phù hợp với thời gian đầu tư. Tuy nhiên, quy ước nghề nghiệp thời là sử dụng lãi suất 10 năm vì đây là trái phiếu có giá trị cao nhất và có tính thanh khoản cao nhất.

 

2.3. Lợi nhuận kỳ vọng của thị trường (Rm)

Nếu cổ phiếu đang được nhiều nhà đầu tư nhắm tới, Rm sẽ thể hiện được mức lợi nhuận kỳ vọng của tất cả các nhà đầu tư.

 

2.4. Hệ số beta

Hệ số beta (được ký hiệu là "β") là thước đo rủi ro của tài sản hay sự biến động của lợi nhuận. Hệ số beta được phản ánh bằng cách đo lường sự thay đổi về giá của tài sản so với thị trường tổng thể. Nói cách khác, hệ số beta là độ nhạy cảm của cổ phiếu đối với rủi ro thị trường. Giá trị beta được tính bằng cách sử dụng phân tích hồi quy để so sánh lợi nhuận trên một cổ phiếu với lợi nhuận trên thị trường vốn.

  • β > 1 thì chứng khoán có rủi ro cao hơn mức chung của thị trường .
  • β < 1 thì chứng khoán có mức rủi ro thấp hơn mức chung của thị trường
  • β = 1, lợi tức kỳ vọng trên một chứng khoán bằng với lợi nhuận trung bình của thị trường.
  • β < 0 có nghĩa là chứng khoán có biến động ngược chiều với thị trường.

Tính toán beta sẽ cho biết một khoản đầu tư rủi ro hơn sẽ thu về lợi nhuận nhiều hơn bao nhiêu so với một khoản đầu tư phi rủi ro. Phần lợi nhuận thu được hơn này sẽ được tính bằng phần bù thị trường vốn chủ sở hữu nhân với hệ số beta của nó. Nói cách khác, bằng cách biết các phần riêng lẻ của CAPM, có thể đánh giá được hiện tại một cổ phiếu có phù hợp với khả năng sinh lời của nó hay không. 

 

2.5. Phần bù rủi ro thị trường

Thay vì tìm kiếm lợi tức trung bình dựa trên thị trường vốn, nghiên cứu đã tập trung vào việc tìm kiếm một giá trị thích hợp cho (Rm - Rf), là sự khác biệt giữa lợi nhuận trung bình trên thị trường vốn và rủi ro - tỷ suất sinh lợi tự do. Sự khác biệt này được gọi là phần bù rủi ro vốn cổ phần. Vì nó đại diện cho lợi tức bổ sung cần thiết để đầu tư vào vốn cổ phần (cổ phiếu trên thị trường vốn nói chung) thay vì đầu tư vào tài sản phi rủi ro.

Trong ngắn hạn, giá cổ phiếu có thể giảm cũng như tăng. Do đó, tỷ suất sinh lợi trung bình trên thị trường vốn có thể âm hơn là dương. Để giải quyết những thay đổi ngắn hạn trong phần bù rủi ro vốn cổ phần có thể thực hiện phân tích đường trung bình trượt theo thời gian trong khoảng thời gian dài hơn, thường là vài thập kỷ.

 

3. Cách hoạt động của mô hình CAPM

Giả sử bạn đang xem một cổ phiếu trị giá $50 ngày hôm nay, cổ tức hàng năm là 3%. Beta của cổ phiếu là 1,5, làm cho nó rủi ro hơn so với thị trường chung. Ngoài ra, giả định rằng lãi suất phi rủi ro là 3% và nhà đầu tư này kỳ vọng thị trường sẽ tăng giá trị 5% mỗi năm.

Vậy ta có thể tính được lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu dựa trên CAPM là 6%.

6% = 3% + 1,5 × (5% −3%)

Lợi tức dự kiến ​​này chiết khấu: cổ tức dự kiến ​​của cổ phiếu và sự tăng giá của cổ phiếu trong thời gian nắm giữ dự kiến. Nếu giá trị chiết khấu của dòng tiền trong tương lai bằng $50, CAPM cho biết cổ phiếu có giá cổ phiếu có giá hợp lý cho rủi ro của nó.

 

4. Các giả định của mô hình CAPM

- Các nhà đầu tư nắm giữ danh mục chứng khoán đã đa dạng hóa hoàn toàn

- Thị trường hoàn hảo: không thuế, không phí giao dịch và môi giới, được vay và cho vay với lãi suất phi rủi ro và lãi suất này không thay đổi theo thời gian, được phép bán khống

- Tất cả các nhầ đầu tư có cùng kỳ vọng đầu tư với tỷ suất sinh lợi cao nhất, tương ứng với mức độ rủi ro cao nhất

- Không có nhà đầu tư nào đủ lớn để ảnh hưởng đến giá của chứng khoán trên thị trường, các nhà đầu tư đều được tiếp cận thông tin như nhau và không chậm trễ, không có sự định giá thị trường sai.

 

5. Ưu điểm của CAPM

- Đơn giản và có thể ứng dụng được trên thực tế, CAPM là một phép tính đơn giản giúp cho các nhà đầu tư nhận ra rủi ro của mỗi loại chứng khoán riêng lẻ và trong danh mục đầu tư

- Hệ số beta là một yếu tố quan trọng mô tả cụ thể về rủi ro của chứng khoán, quyết định quan trọng của tỷ suất sinh lợi. CAPM có tính đến rủi ro thị trường (beta), loại rủi ro này nằm ngoài các mô hình hoàn vốn khác, chẳng hạn như mô hình chiết khấu cổ tức (DDM). Rủi ro thị trường là một biến số quan trọng vì nó không thể lường trước được. Và vì lý do đó, nó thường không thể giảm thiểu hoàn toàn.

- Khả năng thay đổi rủi ro tài chính và kinh doanh: Khi các doanh nghiệp điều tra các cơ hội, nếu kết hợp kinh doanh và tài chính khác với hoạt động kinh doanh hiện tại, thì không thể sử dụng các tính toán lợi tức bắt buộc khác, như  chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC). Tuy nhiên, CAPM có thể.

- Là một công cụ hữu hiệu để ước tính tỷ suất sinh lợi mong đợi đối với các nhà đầu tư mới.

 

6. Hạn chế của CAPM

6.1. Hạn chế về lý thuyết

- Mô hình một yếu tố: Chỉ rủi ro hệ thống (Beta) được định giá trong CAPM. Trong khi sự biến động của các khoản đầu tư chịu ảnh hưởng của rất nhiều rủi ro khác.

- Mô hình một giai đoạn: CAPM là mô hình một giai đoạn không xem xét tác động nhiều giai đoạn hoặc mục tiêu đầu tư của các giai đoạn trong tương lai. Vì vậy, nó không thể nắm bắt các yếu tố thay đổi ở các kì tiếp theo.

 

6.2. Hạn chế trong quá trình ứng dụng

- Danh mục đầu tư: Danh mục đầu tư theo CAPM bao gồm tất cả các tài sản (tài chính và phi tài chính). Có nghĩa là nó cũng bao gồm nhiều tài sản không thể đầu tư, như nguồn vốn về con người và tài sản trong các nền kinh tế đóng. Do vậy, các nhà đầu tư không thể thỏa mãn giả định về đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình dẫn đến sai lệch về kết quả.

- Lãi suất phi rủi ro: Rf thường được coi như là bằng với lợi tức của trái phiếu chính phủ ngắn hạn. Tuy nhiên đây cũng không phải là hằng số mà là biến số thay đổi hàng ngày.

- CAPM được xây dựng dựa trên bốn giả định chính. Trong đó, giả định nhà đầu tư có thể vay/cho vay với lãi suất phi rủi ro là không thực tế. Các nhà đầu tư cá nhân không có khả năng vay/cho vay với tỷ lệ như chính phủ. Do đó, đường lợi nhuận yêu cầu tối thiểu thực sự có thể ít dốc hơn (cung cấp lợi nhuận thấp hơn) so với mô hình tính toán.

- Vấn đề ủy thác: Khi nhà đầu tư ủy thác đầu tư, các nhà phân tích khác nhau, các quốc gia khác nhau sẽ tạo ra lợi nhuận kì vọng khác nhau cho cùng một tài sản. Điều này trái với giả định của CAPM.

- Ước tính hệ số rủi ro beta: Cần có dữ liệu đủ dài về lợi nhuận (từ ba đến năm năm) để ước tính rủi ro beta. Ngoài ra, mô hình sử dụng các giai đoạn khác nhau để ước tính kết quả trong các ước tính beta khác nhau.

Trên đây là toàn bộ tổng hợp và phân tích của công ty luật Minh Khuê. Trường hợp trong nội dung bài viết có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung bài viết khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác!

Luật Minh Khuê (tổng hợp và phân tích).