1. David Clarence McClelland

Ông David Clarence McClelland sinh ngày 20 tháng 5 năm 1917 và mất vào ngày 27 tháng 3 năm 1998, ông là một nhà tâm lý học người Mỹ , nổi tiếng với công trình của ông về Lý thuyết nhu cầu động lực . Ông đã xuất bản một số công trình từ những năm 1950 đến những năm 1990 và phát triển các hệ thống tính điểm mới cho Bài kiểm tra Nhận thức Chuyên đề (TAT) và các hệ thống tính điểm của nó. McClelland được ghi nhận là người phát triển Lý thuyết Động lực Thành tích, thường được gọi là "nhu cầu thành tích" hoặc lý thuyết n -achievement. Một cuộc khảo sát về Tâm lý học Tổng quát xuất bản năm 2002, đã xếp hạng McClelland là nhà tâm lý học được trích dẫn nhiều nhất thứ 15 của thế kỷ 20.

David Clarence McClelland là một giáo sư, tiến sĩ tâm lý học nổi Á-X tiếng của Mỹ. Ông là giáo sư trường Đại học Harvard, một số trường đại học khác, kiêm chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Maikh. Ông thường xuyên đi giảng bài ở các nước Châu Âu, Châu Á, là cố vấn cho một số cơ quan chính phủ Mỹ và một số nước khác.

Vậy ông McClelland được sinh ra ở Mt. Vernon, New York , được trao bằng Cử nhân Văn học từ Đại học Wesleyan năm 1938, bằng Thạc sĩ từ Đại học Missouri năm 1939, [1] và Tiến sĩ tâm lý học thực nghiệm từ Đại học Yale năm 1941. Ông giảng dạy tại Cao đẳng Connecticut và Đại học Wesleyan trước khi gia nhập giảng viên tại Đại học Harvard vào năm 1956, nơi ông đã làm việc trong 30 năm, giữ chức vụ chủ nhiệm Khoa Tâm lý và Quan hệ xã hội. Năm 1987, [4] ông chuyển đến Đại học Boston, nơi ông đã được trao Giải thưởng Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ cho những đóng góp khoa học xuất sắc.

2. Những cống hiến của David c. McClelland về khoa học quản lý

Cống hiến của McClelland về khoa học quản lý được tập trung thể hiện trong lý luận về sự khích lệ đối với con người. Từ những năm 40 của thếkỷ XX, ông đã nghiên cứu nhu cầu, động cơ của con người và vân đề làm thế nào để phát huy tiềm năng của con người. Lúc đó, ông đã tổng kết và rút ra lý luận về tầng nấc của các nhu cầu, có tiếng vang một thời, được nhiều người đánh giá là có ý nghĩa mở đầu, mang tính thực dụng đối với công lác quản lý.

Các chủ đề chính trong công việc của David McClelland là về tính cách và việc áp dụng kiến ​​thức đó để giúp mọi người cải thiện cuộc sống của họ.

- Một chủ đề là sự phát triển của lý thuyết giá trị tuổi thọ về động lực của con người.

- Chủ đề thứ hai là sự phát triển của các bài kiểm tra và các phương pháp hoạt động, chẳng hạn như Bài kiểm tra khả năng tiếp nhận theo chủ đề, Phỏng vấn sự kiện hành vi và Bài kiểm tra phân tích theo chủ đề.

- Chủ đề thứ ba là sự phát triển của các nghiên cứu năng lực công việc và chủ đề thứ tư là việc áp dụng nghiên cứu này để giúp đỡ mọi người và hệ thống xã hội của họ, cho dù đó là thông qua động lực và phát triển năng lực, tổ chức và phát triển cộng đồng, và thay đổi hành vi để chống lại căng thẳng và nghiện ngập.

Ông David McClelland tin tưởng vào việc áp dụng các kết quả từ nghiên cứu và thử nghiệm để xem liệu chúng có giúp ích được gì cho mọi người hay không. Ông có công trong việc thành lập 14 công ty nghiên cứu và tư vấn, công ty lớn nhất là McBer and Company (1965-1989), sau đó được bán cho Yankelovich, Skelly & White.

Năm 1956, Meclelland đã đưa ra những ý kiến hoài nghi về tính phổ biến của lý luận Maslow cũng như căn cứ của khái niệm cơ bản của lý luận đó, tức là khái niệm “tự mình thực hiện”. Meclelland cho rằng, rất nhiều nhu cầu của con người không phải là nhu cầu mang tính sinh lý mà mang tính xã hội và đứng trên góc độ từng cá nhân riêng lẻ, người ta rất khó kết luận những nbu cầu tâm lý nào là phổ biến, gắn liền với cuộc sống. Thời đại khác nhau, xã hội khác nhau, bối cảnh văn hóa khác nhau thì nhu cầu của con người tất nhiên cũng khác nhau.

Ông cho rằng, học thuyết của Maslow quá nhấn mạnh ý thức, cảm nhận bên trong và giá trị nội tại của cá nhân, coi nhẹ ảnh hưởng xã hội, làm cho lý luận đó trở nên phiến diện. Ông đã cùng với các nhà tâm lý học khác, trải qua 20 năm nghiên cứu, rút ra kết luận rằng: “Nhu cầu mang tính xã hội của con người không phải là bẩm sinh mà là hình thành do hoàn cảnh, sự tùng trải, quá trình đào tạo, đặc biệt là sau khi những hành vi nào đó được đền đáp thì mó thức hành vi ấy sẽ mạnh lên và hình thành khuynh hướng nhu cầu”.

Ông Meclelland cùng một số người khác sử dụng phương pháp tâm lý, thông qua thí nghiệm, phàn tích định lượng và định tính, rút ra 3 loại nhu cầu mang tính xã hội. Đó là: nhu cầu lập công, nhu cầu giao lưu xã hội và nhu cầu quyền lực.

3. Những tác phẩm của McClelland

Những tác phẩm của McClelland rất phong phú. ông đã xuất bản hơn 10 bộ sách và công bố rất nhiều luận văn học thuật.

Những cuốn sách tương đối quan trọng của ông là: “Xã hội lập công” (1951), “Quyền lực, kinh nghiệm của sự cảm nhận bên trong” (1975). Những luận văn tương đối quan trọng của ông là: “Bàn về luận vãn của giáo sư Maslow” (1955), “Có thể nuôi dưỡng động cơ lập công” (1965), “Sự khao khát lập công” (1956), “Tính hai mặt của quyền lực”...

4. Tác phẩm “Tính hai mặt của quyền lực”

Trong phần mở đầu của bài luận văn nổi tiếng có nhan đề: “Tính hai mặt của quyền lực”, ông Meclelland đã viết: “Hơn 20 năm nay, tôi thường xuyên nghiên cứu một động cơ riêng có của loài người.

Đó là nhu cầu và nguyện vọng lập công, nhu cầu và nguyện vọng làm việc tốt hơn. Nhu cầu lập công này sẽ kích thích nhà doanh nghiệp mở mang công việc, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, do đó trớ thành một trong những nhân tố phát triển của toàn bộ nền kinh tẽ”.

Trong quá trình nghiên cứu nhu cầu lập công, Meclelland đã phát hiện rất nhiều vấn đề có liên quan đến quyền lực, sự lãnh đạo và ảnh hưởng xã hội. Nếu chỉ có ý thức lập công thôi, rõ ràng là không thê giải đáp được với những vấn đề này.

Ví dụ chứng minh, trong tình hình quy mô xí nghiệp không ngừng mở rộng thì phải có người phụ trách, phải có sự phân công, điều hòa, phối hợp, giám sát, điều khiển. Những người có nhu cầu lập cổng cá nhân chưa chắc đã đảm nhận được công việc này. Một nhân viên bán hàng giỏi chưa chắc đã làm được giám đốc bán hàng. Những người có thành tích cá nhân rất lớn chưa chắc có thể lãnh đạo doanh nghiệp lập được thành tích. Vì rằng, trách nhiệm của nhân viên quản lý là khích lệ số đông công nhân viên lập công, chứ không phải là chỉ chú ý thành tích của cá nhân mình. Việc kích thích ý thức lập công của người khác cần có một động cơ và kỹ xảo hoàn toàn khác.

Do đó, ông dần dần chuyển việc nghiên cứu nhu cầu lập công sang việc nghiên cứu bầu không khí của môi trường tổ chức, làm cho người ta có cơ hội lập thành tích và có sự báo đáp cho người lập thành tích.

Mặc dù người có nhu cầu lập công mãnh liệt thường muốn làm lấy một mình, nhưng ở những doanh nghiệp hiện dại thì trên thực tế, điều đó là không thể được. Họ nhất định phải chịu sự ràng buộc của tổ chức, nhất định cần có người quản lý, điều khiển và lãnh đạo. McClelland cho rằng, điều quan trọng hơn là phải nghiên cứu tâm lý, đặc trưng tính cách, cơ cấu nhu cầu của người quản lý và người lãnh đạo.

Do nhiệm vụ quan trọng nhất của người quản lý là tác động đến người khác nên nhu cầu quyền lực rõ ràng là một trong những đặc trưng tính cách của họ. Lãnh đạo và quyền lực là hai khái niệm có liên quan mật thiết với nhau. Việc nghiên cứu động cơ của quyền lực sẽ có ích cho việc lý giải những phương thức lãnh đạo trong quản lý doanh nghiệp. Nếu nói nhu cầu lập công đối ứng với tinh thần sáng tạo thì nhu cầu quyền lực đối ứng với các loại hình lãnh đạo - lãnh đạo doanh nghiệp, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo chính trị v.v...

5. Công trình nghiên cứu của Meclelland về bản chất của tính hai mặt của quyền lực

Về công trình nghiên cứu của Meclelland cho thấy có 2 loại quyền lực khác nhau: “Quyền lực xã hội hóa” và “Quyền lực cá nhân hóa”.

Theo từ điển bách khoa, quyền lực nếu được miêu tả theo khía cạnh khoa học xã hội, một mặt là khả năng gây ảnh hưởng của một người hoặc một nhóm người đến hành vi và suy nghĩ của các cá nhân, nhóm người khác với ý nghĩa là "quyền lực"; mặt khác, nó đại diện cho 1 vị trí của cá nhân hoặc nhóm người, là khả năng đạt được mục tiêu xác định một cách đơn phương, không chịu sự kiểm soát, áp đặt, hay phải đáp ứng các điều kiện và đòi hỏi của các cá nhân hoặc nhóm người khác (Ví dụ: quyền con người). Vế sau được hiểu theo tính pháp lý với ý nghĩa là "thẩm quyền", "quyền lợi" của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia trong xã hội (khế ước xã hội).

Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn của các "khả năng hành động, gây ảnh hưởng" cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hoặc một nhóm người. Việc sử dụng thứ sức mạnh này để gây ảnh hưởng đến cá nhân, nhóm người khác, có thể mang theo những ý nghĩa tích cực cũng như tiêu cực, dựa trên mục đích, nguyên tắc, cách thức sử dụng chúng. Cần phân biệt việc "lạm quyền" và việc "vi phạm giới hạn quyền lực". Lạm dụng quyền lực là việc sử dụng quyền lực mà không tuân theo những mục đích quy định cho sự tồn tại của quyền lực. Việc vượt quá phạm vi giới hạn quyền lực là việc không tuân theo những nguyên tắc, cách thức được quy định sẵn trong quá trình sử dụng quyền lực.

Về 2 loại quyền lực: “Quyền lực xã hội hóa” và “Quyền lực cá nhân hóa”. Hai loại quyền lực này có sự khác nhau. Loại trước lấy việc tác động đến người khác làm hạt nhân, nhưng xuất phát điểm của nó là nghĩ về người khác. Loại sau lấy việc thực hiện sự thống trị cá nhân làm hạt nhân. Biểu hiện hành vi của hai loại quyền lực ấy khác nhau rất nhiều. Xét về thực chất, đây là tính hai mặt của quyền lực.

Về quyền lực, nó có những đặc trưng nhất định mà chỉ có nó mới có. Ví dụ: tính tương tác xã hội, tính cưỡng ép, tính chính đáng, tính mục đích....

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê (Sưu tầm và Biên soạn).