1.  Nguồn gốc sự ra đời và phát triển của thuyết phân quyền

Ngược dòng thời gian, ta thấy tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước có mầm mống xa xưa trong lịch sử. Chúng ta có thể tìm thấy những nét sơ khai đầu tiên của nó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Hy Lạp, La Mã cổ đại, trong các quan điểm chính trị của Aristote, Polybe…

Aristote (384-322 tr.CN) đã chia hoạt động của Nhà nước thành ba thành tố: nghị luận, chấp hành và xét xử. Các thành tố này, lúc đầu, được mô tả một cách giản đơn về mặt cấu trúc, chức năng và thẩm quyền, những khía cạnh có tính đơn biệt của việc tổ chức quyền lực nhà nước, chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan hệ bên trong giữa các thành tố đó. Cũng theo Aristote không có loại hình Chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với tất cả mọi thời đại, mọi quốc gia. Tuy nhiên, tư tưởng này gần như bị lãng quên hoặc không thể được nhắc đến trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong kiến, khi mà chính thể quân chủ chuyên chế xuất hiện hầu hết ở các nước. Chỉ đến khi quan hệ sản xuất phong kiến tan rã, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện và trở thành chỗ dựa vững chắc về mặt tư tưởng cho các phong trào đấu tranh lật đổ chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ phong kiến thì tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước hay là tư tưởng phân quyền mới thực sự ra đời. Nhiều học giả đã nhận định rằng thuyết phân quyền ra đời nhằm chống lại chế độ quân chủ  chuyên chế.

Tuy có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, tuy nhiên, tư tưởng về phân quyền chỉ trở thành một lý thuyết toàn diện và độc lập trong thời kỳ Khai sáng. Người khai sinh ra lý thuyết này là triết gia người Anh, John Locke (1632-1704). John Locke cho rằng: quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền lực của mình cho nhà nước qua khế ước và để chống độc tài phải thực hiện phân quyền. Locke phân quyền lực nhà nước thành: lập pháp – hành pháp – liên hợp. Tuy là người khai sinh ra lý thuyết về phân quyền nhưng người thực sự phát triển nó lại là nhà luật học người Pháp S. Montesquieu (1689-1755). Từ thế kỷ 18, S. Montesquieu đã phát triển thuyết phân quyền thành một thuyết độc lập với mục đích tạo dựng thể chế chính trị đảm bảo tự do công dân. Theo đó,

Montesquieu xây dựng thuyết phân quyền với phương châm: “dùng quyền lực nhà nước hạn chế quyền lực nhà nước”. Ông cho rằng nhân dân lao động là những người bị trị, nên không thể hạn chế quyền lực nhà nước do một tập đoàn có thế lực nhất trong xã hội nắm giữ, bởi vậy, phải thiết lập một cơ chế khác để hạn chế quyền lực nhà nước, nhằm ngăn ngừa tệ độc đoán và lạm quyền trong bộ máy nhà nước. Cũng như Aristote và John Locke, Montesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó quyền lực tối cao được phân thành ba quyền: lập pháp (biểu hiện cho ý chí chung của quốc gia, do Nghị viện (Quốc hội) nắm giữ); hành pháp (là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập do Chính phủ, tổng thống nắm giữ); tư pháp (trừng trị tội phạm, giải quyết xung đột cá nhân). Đây là sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu khi tách quyền xét xử - quyền tư pháp tách ra khỏi các quyền khác. Tư tưởng phân quyền của Mongtesquieu là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến và có thể khẳng định ông là người đã phát triển và hoàn thiện thuyết phân quyền.

2. Nội dung cơ bản của thuyết phân quyền:

Nội dung cơ bản của thuyết phân quyền được thể hiện qua những đặc điểm sau:

Một là, quyền lực nhà nước được cấu thành bởi các bộ phận khác nhau là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Hai là, các loại quyền lực nói trên không được tập trung vào tay một cá nhân hoặc một cơ quan nhà nước, mà phải được chia ra cho các cơ quan khác nhau thực hiện, nắm giữ: quyền lập pháp thuộc về cơ quan dân cử; quyền hành pháp do cá nhân đứng đầu chịu trách nhiệm nắm giữ; quyền tư pháp thuộc về một cơ quan có sự độc lập cao so với hai cơ quan còn lại để đảm bảo chức năng bảo vệ công lý.

Ba là, giữa các cơ quan nhà nước, trong quá trình thực hiện quyền lực, chúng có thể kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau, để không cho bất kỳ cơ quan nào có thể lạm dụng quyền lực. Đó là cơ chế “quyền lực ngăn cản quyền lực” hoặc cơ chế “kiềm chế - đối trọng”.

Như vậy, có thể hiểu rằng phân quyền không những sẽ làm tăng thêm hiệu quả của mỗi nhánh quyền lực trong việc thực hiện những chức năng được giao, mà còn ngăn cản, kiềm chế không để một cơ quan riêng biệt nào tập trung quyền lực quá mức, dẫn đến lạm dụng quyền hành trong khi thi hành công vụ.

Trước hết phải khẳng định, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, nơi việc phân chia quyền lực kèm theo sự đối trọng quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên nước ta đã áp dụng hợp lý thuyết phân chia quyền lực. Việc phân chia quyền lực này thể hiện qua những bản hiến pháp của nhà nước ta như sau:

3. Vân dụng thuyết phân chia quyền lực trong Hiến pháp 1946

Tại Hiến pháp 1946 nước ta theo mô hình cộng hòa lưỡng tính, phân quyền mềm dẻo, trong đó:

- Nghị viện thực hiện quyền lập pháp và có quyền lực cao nhất (giống Nghị viện Nhật theo HP 1946);

- Chủ tịch nước vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ (ảnh hưởng của mô hình Cộng hòa Tổng thống);

- Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất (không qui định là cơ quan chấp hành của Nghị viện);

- Quyền tư pháp được thực hiện độc lập ( Khi xét xử các viênthẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp ,Đ.69); Các tòa án tổ chức theo thẩm cấp tố tụng (Tòa án tối cao; Tòa phúc thẩm; Tòa đệ nhị cấp và Tòa sơ cấp), thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm.

4. Vân dụng thuyết phân chia quyền lực trong Hiến pháp 1959:

Hiến pháp 1959 nước ta theo mô hình nhà nước XHCN, phân quyền không triệt để. Tức là mô hình kết hợp giữa tập quyền và phân quyền:

- Yếu tố phân quyền: Quốc hội là cơ quan lập hiến, lập pháp, chính phủ có quyền hành pháp, tòa án và Viện kiểm sát thực hiện quyền tư pháp; Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Yếu tố tập quyền: Chính phủ (Hội đồng Chính phủ) là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Thẩm phán và HTND do HĐND cùng cấp bầu ra.

Trong Hiến pháp 1959, cũng có sự thể hiện việc phân chia chức năng, thẩm quyền, mối quan hệ phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, tức là có những dấu hiệu tư tưởng phân quyền, nhưng mờ nhạt hơn nhiều so với Hiến pháp năm 1946.

5. Vân dụng thuyết phân chia quyền lực trong Hiến pháp 1980:

Tại Hiến pháp 1980 nước ta theo Mô hình nhà nước XHCN, phân quyền không triệt để hay kết hợp giữa tập quyền và phân quyền:

- Yếu tố tập quyền: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; Chính phủ (hay Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan chấp hành của Quốc hội là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội).

- Yếu tố phân quyền: Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (hành chính nhà nước);

Hiến pháp quy định một thiết chế mới là Hội đồng nhà nước trên cơ sở hợp nhất giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước của Hiến pháp 1959. Đặc biệt, Hiến pháp 1980 quy định cho Quốc hội có quyền tự trao thêm cho mình và Hội đồng Nhà nước những quyền khác, ngoài những quyền đã nêu trong Hiến pháp.

Trong Hiến pháp 1980, mặc dù có sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, song nhìn chung, sự phân định là rất kém rõ ràng; mức độ độc lập của các cơ quan hành pháp, tư pháp, lập pháp là rất thấp, trong khi quyền lực của Quốc hội được tăng cường tối đa.

6. Vân dụng thuyết phân chia quyền lực trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001

Tại Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 nước ta theo mô hình Hiến pháp XHCN thời kỳ đổi mới, phân quyền không triệt để hay tập quyền kết hợp với phân quyền nhưng tăng cường yếu tố phân quyền (nhất là từ giai đoạn sửa đổi Hiến pháp năm 2001):

- Yếu tố tập quyền: Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội; dưới chế độ đơn đảng;

- Yếu tố phân quyền: Quốc hội lập hiến có quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành chính - nhà nước; tòa án, viện kiểm sát thực hiện quyền tư pháp; tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Như vậy, tại Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 việc tổ chức quyền lực vẫn được khẳng định theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, nhưng trong các quy định cụ thể, Hiến pháp đã thể hiện khá rõ sự tiếp thu những hạt nhân cơ bản của thuyết phân quyền. Đó chính là sự ghi nhận một cách chính thức trong Hiến pháp ba loại quyền lực nhà nước theo quan điểm của thuyết phân quyền: gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp; việc thừa nhận sự phân công, phối hợp giữa các loại quyền lực nhà nước và việc đặt ra những quy định cụ thể về sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước Việt Nam.

Qua đó Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 đã thể hiện được chế độ phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

7. Vân dụng thuyết phân chia quyền lực trong Hiến pháp 2013

Tại Hiến pháp 2013 nước ta theo Mô hình bộ máy nhà nước XHCN thời kỳ đổi mới, kết hợp giữa tập quyền và phân quyền nhưng tăng cường hơn nữa yếu tố phân quyền:

- Yếu tố tập quyền: nước ta hiện tại vẫn theo chế độ đơn đảng, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội;

- Tuy nhiên Tại Hiến pháp 2013 có sự tăng cường thêm yếu tố phân quyền: quy định rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, tòa án thực hiện quyền tư pháp;

+ Xác lập nguyên tắc đảm bảo sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp ;

+ Tổ chức tòa án theo nguyên tắc thẩm cấp tố tụng (thành lập thêm Tòa án cấp cao, kéo dài nhiệm kỳ của thẩm phán);

+ Tăng cường phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương;

+ Xác định rõ thêm chức năng của tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền con người và công dân.

+ Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội cho mặt trận Tổ quốc việt Nam;

+ Tăng cường dân chủ trực tiếp;

+ Tăng cường các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, thành lập các thiết chế hiến định: Kiểm toán nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia;

+ Tăng cường vai trò bảo vệ các quyền con người và công dân của Tòa án và các thiết chế công quyền khác.

Điều 2 Hiến pháp 2013 đã quy định "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".

Như vậy, Việc tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước. Yếu tố kiểm soát ở đây không phải là sự “kiềm chế, đối trọng” mà nó tăng sự giám sát giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp năm 2013 là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước tiến bộ, văn minh, có tính thời đại và phù hợp với Nhà nước ta.