Trong quá trình giảng dạy và quản lý lớp, giáo viên thường phải đối mặt với việc học sinh sử dụng điện thoại di động trong giờ học. Điều này gây ra nhiều tranh cãi về quyền hạn và trách nhiệm của giáo viên trong việc thu giữ điện thoại của học sinh. Bài viết này sẽ trình bày một cái nhìn tổng quan về vấn đề này, nhằm giải đáp cho câu hỏi: Giáo viên có quyền thu điện thoại của học sinh hay không? Sẽ phân tích các quy định pháp luật liên quan và tìm hiểu về quyền riêng tư của học sinh, nhằm mang đến một cái nhìn cân nhắc và đầy đủ về vấn đề này.
1. Giáo viên có quyền thu điện thoại của học sinh hay không?
Thông qua Thông tư số 32 năm 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra một quy định nghiêm cấm học sinh sử dụng điện thoại di động và các thiết bị khác không phục vụ cho việc học tập trong lớp học mà không có sự cho phép của giáo viên. Việc học sinh tự ý sử dụng điện thoại để làm việc riêng trong giờ học được coi là vi phạm nội quy trường học, tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc nhà trường và giáo viên có quyền tịch thu điện thoại của học sinh.
Theo đó, giáo viên có quyền yêu cầu học sinh cất điện thoại vào cặp hoặc tạm thời thu giữ nó và sau đó trả lại, nhằm mục đích nhắc nhở và răn đe học sinh để họ tập trung hơn vào việc học. Hành vi này không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu giáo viên tịch thu hoàn toàn điện thoại của học sinh mà không trả lại hoặc sử dụng điện thoại mà không có sự cho phép, thì đây được coi là hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, theo các quy định tại Điều 38 của Bộ luật Dân sự 2015 và Khoản 2 Điều 46 của Luật Giao dịch điện tử 2005, quyền bí mật thư tín, điện thoại và điện tín của mỗi cá nhân được xem là bất khả xâm phạm và được bảo vệ bởi pháp luật. Luật Trẻ em 2016 cũng đã quy định rõ về vấn đề này.
Do đó, việc xác định vi phạm về quyền bí mật thư tín, điện thoại và điện tín của người khác mà không có sự đồng ý có thể chịu phạt hành chính lên đến 20 triệu đồng theo căn cứ của Nghị định 15/2020/NĐ-CP hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 159 của Bộ luật hình sự 2015, với mức phạt tối đa là 3 năm tù.
2. Giáo viên tịch thu điện thoại của học sinh có xâm phạm quyền sở hữu?
Việc thầy, cô giáo tạm thời tịch thu điện thoại của bạn học sinh, sinh viên bởi các bạn sử dụng chúng trong giờ học là rất thường thấy bởi nó gây xao nhãng cho sự học tập. Điều này không vi phạm pháp luật, và thầy, cô có thể trả lại điện thoại cho các bạn kèm theo lời nhắc nhở.
Tuy nhiên, có câu hỏi liên quan đến việc tịch thu điện thoại của học sinh và xem xét việc có vi phạm quyền sở hữu hay không. Hành động tịch thu điện thoại của giáo viên phải căn cứ vào mục đích tịch thu và cần xem xét hành vi kèm theo để xác định việc có vi phạm quyền sở hữu hay không.
Theo khoản 1 điều 35 và khoản 4 điều 37 trong Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT, học sinh được phép sử dụng điện thoại di động cho mục đích học tập khi được giáo viên cho phép. Đồng thời, khoản 2 Điều 34 trong Điều lệ yêu cầu học sinh phải tuân thủ nội quy nhà trường.
Việc các bạn học sinh tự ý sử dụng thiết bị điện tử trong giờ học mà không được cho phép là vi phạm nội quy, và giáo viên có quyền yêu cầu các bạn cất điện thoại vào, hoặc tạm thời thu giữ và trả lại sau đó nhằm mục đích nhắc nhở, răn đe để các bạn tập trung vào việc học. Hành vi này không vi phạm pháp luật, và thực tế, phụ huynh cũng không phản đối việc này.
Tuy nhiên, nếu giáo viên chiếm giữ điện thoại với mục đích sử dụng hoặc cố ý không trả lại cho chủ sở hữu thật sự của tài sản, thì đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Việc tự ý mở xem hoặc sử dụng điện thoại của học sinh không được phép theo Điều 21 của Hiến pháp 2013, trong đó quy định:
"Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng khác. Không ai được xâm phạm, kiểm soát, thu giữ trái pháp luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác."
Đồng thời, theo các quy định tại Điều 38 của Bộ luật Dân sự 2015 và Khoản 2 Điều 46 của Luật giao dịch điện tử 2005, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của mỗi cá nhân là bất khả xâm phạm và được bảo vệ bởi pháp luật.
Tùy vào tính chất và mức độ của hành vi, người xâm phạm quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của người khác mà không có sự đồng ý có thể bị phạt hành chính lên đến 20 triệu đồng theo căn cứ điểm a, khoản 3, Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 159 Bộ luật hình sự 2015 với mức phạt tối đa là 03 năm tù.
Tóm lại, việc giáo viên tịch thu điện thoại của học sinh nhằm mục đích nhắc nhở các bạn học sinh tập trung vào việc học không được coi là vi phạm quyền sở hữu. Tuy nhiên, nếu giáo viên mở điện thoại, xem tin nhắn, v.v. và vi phạm quyền riêng tư về bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, đây là hành vi vi phạm pháp luật, áp dụng cho cả học sinh, sinh viên và mọi người nói chung.
3. Nhà trường có được tịch thu điện thoại của học sinh hay không?
Theo quy định tại Điều 75 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quyền sở hữu tài sản là quyền không phụ thuộc vào độ tuổi hay năng lực hành vi dân sự. Trẻ chưa thành niên vẫn có quyền sở hữu tài sản riêng của mình, bao gồm các tài sản thừa kế riêng, được tặng riêng, thu nhập từ lao động, hoa lợi, lợi tức và các nguồn thu nhập hợp pháp khác. Tài sản hình thành từ tài sản riêng của trẻ cũng được coi là tài sản riêng của trẻ.
Nếu con bạn là chủ sở hữu của một chiếc điện thoại, con có các quyền sở hữu như được quy định tại Điều 158 của Bộ luật Dân sự 2015. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy định của luật.
Chủ sở hữu có quyền thực hiện mọi hành vi liên quan đến tài sản theo ý chí của mình, trừ trường hợp vi phạm quy định của luật, gây thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, điều này được quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó:
Điều 163. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
- Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
- Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước có thể mua hoặc thu giữ tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.
Vì vậy, không ai có quyền hạn chế hoặc tước đoạt trái luật quyền sở hữu tài sản của con bạn. Nhà trường mà con bạn đang học không có quyền thu, giữ hoặc chiếm hữu điện thoại của con nếu con không đồng ý đưa điện thoại cho họ. Do đó, trường học không có quyền tịch thu điện thoại của con bạn.
Công ty Luật Minh Khuê mong muốn chia sẻ với quý khách hàng những thông tin tư vấn pháp lý hữu ích và hướng dẫn giải quyết các vấn đề pháp lý một cách đáng tin cậy. Nếu quý khách hàng đang gặp phải bất kỳ vấn đề pháp lý nào hoặc có câu hỏi cần được giải đáp, chúng tôi sẽ làm hết sức để hỗ trợ bạn.
Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật trực tuyến thông qua Tổng đài tư vấn pháp luật được thu phí số hotline 19006162. Qua kênh này, bạn có thể liên hệ trực tiếp với chuyên gia của chúng tôi để nhận được sự tư vấn và hướng dẫn chính xác, đáng tin cậy về vấn đề pháp lý mà bạn đang quan tâm.
Ngoài ra, nếu bạn muốn gửi yêu cầu chi tiết hoặc có thắc mắc cần giải đáp, quý khách hàng có thể gửi email đến địa chỉ lienhe@luatminhkhue.vn. Đội ngũ chuyên gia của chúng tôi sẽ nhanh chóng phản hồi và hỗ trợ bạn trong thời gian sớm nhất.
Cảm ơn quý khách hàng đã tin tưởng và hợp tác cùng Công ty Luật Minh Khuê. Chúng tôi hy vọng sẽ mang đến cho bạn sự hỗ trợ tốt nhất và giúp bạn giải quyết các vấn đề pháp lý một cách hiệu quả.