Mục lục bài viết
Các khái niệm liên quan
Quyền lực được hợp thành từ quyền và lực, trong đó quyền được hiểu là khả năng được thực hiện những hành vi (công việc, nhiệm vụ, hoạt động, nhất định) và lực là sức mạnh (uy tín, trí tuệ, lực lượng, điều kiện và tiềm lực kinh tế…) bảo đảm cho quyền có tính hiện thực và tính khả thi 2 . Quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước nhờ đó các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng ý chí của nhà nước. “Khả năng” của nhà nước phụ thuộc vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh vật chất, uy tín của nhà nước trong xã hội hay khả năng vận động quần chúng của nó...
Giới hạn là giữ lại, ngăn lại một sự vật, hiện tượng nào đó trong một phạm vi, mức độ nhất định, không để cho sự vật, hiện tượng ấy vượt qua phạm vi, mức độ đó. Giới hạn quyền lực nhà nước (limited govemment) tức là nhà nước không thể có quyền vô hạn định, mà nhà nước chỉ có quyền trong một phạm vi nhất định được quy định rõ ràng trong luật.
Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định đặt trong phạm vi quyền hành của đối tượng nào đó. Kiểm soát quyền lực nhà nước là đặt hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức nhà nước dưới sự giám sát của một chủ thể nhất định, một tổ chức nhất định, một tập thể nhất định.
Sự cần thiết của nhà nước
Ở phương diện xã hội, nhà nước rất cần thiết cho xã hội vì xã hội luôn tồn tại hàng loạt vấn đề như thiên tai, địch họa,... Ngày nay, nhà nước có nhiều hoạt động lợi ích cho cộng đồng như: xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, đường xá, cầu cống, trường học, bệnh viện, tổ chức, điều hành các dịch vụ công. Con người không thể sống thiếu nhà nước, cuộc sống mà không có nhà nước một nhà nước hiệu lực để duy trì trật tự thì rất “đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi”. Bên cạnh sự cần thiết như vậy, chúng ta cần phải nhận ra rằng nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm quyền, mà vi phạm đến quyền lợi cá nhân.
Cơ sở của việc cần giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước
Cơ sở lý luận:
Ưu thế của nhà nước so với các tổ chức khác trong xã hội có thể gây ra sự lạm dụng tàn bạo về quyền hành của quyền lực nhà nước.Đó là:
So với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, nhà nước được xây dựng, bảo vệ, củng cố, phát triển trên nền tảng xã hội rộng lớn nhất. Nhờ đó nhà nước có khả năng và điều kiện triển khai thực hiện pháp luật cũng như các chủ trương, chính sách một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức, hợp pháp cho toàn thể xã hội, nhân danh xã hội để thực hiện việc tổ chức và quản lý hầu hết các mặt của đời sống xã hội. Từ đó, nhà nước có một vị thế vững chắc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nhà nước có quyền lực công khai, bao trùm toàn xã hội, quyền lực nhà nước có khả năng tác động rộng lớn nhất so với quyền lực của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình bằng bộ máy nhà nước bao gồm đội ngũ công nhân viên chức đông đảo, được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương, được vận hành theo những nguyên tắc nhất định và thông suốt, tạo thành hệ thống thống nhất và đồng bộ. Nhà nước có pháp luật – công cụ quản lý xã hội có hiệu quả nhất. Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với tất cả mọi người. Pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, có phạm vi bao trùm toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Biện pháp bảo đảm thực hiện của pháp luật là thuyết phục và cưỡng chế, trong đó cưỡng chế là chủ yếu. Các cơ quan nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế là công an, bộ đội, tòa án… Hoạt động của các tổ chức khác trong xã hội đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.
Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn nhất, vì vậy nhà nước có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Không chỉ có thể trở thành chủ sở hữu những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội, nhà nước còn có quyền quy định và thực hiện việc thu thuế. Nhờ đó nhà nước có nguồn của cải to lớn đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước và còn có thể hỗ trợ vật chất cho các tổ chức khác.
Nhà nước là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị mang chủ quyền quốc gia. Thể hiện ở chỗ: nhà nước có toàn quyền quyết định và thực hiện các chính sách đối nội, đối ngoại, không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài; nhà nước có quyền nhân danh cả quốc gia và toàn thể dân tộc trong quan hệ đối ngoại và là chủ thể của công pháp quốc tế. Căn bản trong cơ sở lý luận của việc hạn chế quyền lực nhà nước chính là con người. Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người tách ra từ xã hội. Hay nói cách khác, nhà nước chính là do con người điều khiển. Mà bản chất của con người từ xưa đến nay và không bao giờ thay đổi đó chính là lòng tham. Tham của cải, tham tình cảm, tham tri thức, tham ăn, tham ngủ, … và đặc biệt là tham quyền lực, tham sự điều khiển người khác. Quyền lực nhà nước tác động trên phạm vi toàn lãnh thổ, tác động to lớn đến mọi cá nhân, mọi tổ chức tròn xã hội, khiến cho người sở hữu nó có cảm giác như tất cả mọi thứ đều nằm trong tầm kiểm soát của mình. Khi một cá nhân nắm giữ quyền lực nhà nước, cá nhân đó sẽ nắm giữ toàn bộ sức mạnh bạo lực và của cải vật chất của đất nước, khiến cho mọi người trong xã hội phải nghe theo ý chí của người đứng đầu. Từ đó, trong tư tưởng của người đo sẽ nảy sinh sự khao khát được điều kiển người khác, được người khác tôn sùng, cuộc sống thoải mái theo ý mình… và sẽ dần quên đi chức năng, nhiệm vụ của nhà nước mà chỉ biết lam dụng quyền lực nhà nước để phục vụ bản thân.
Nếu không giới hạn quyền lực nhà nước sẽ dẫn đến tình trạng vi phạm nhân quyền, quyền cơ bản của con người. Quyền con người là khả năng thực hiện các đặc quyền tự nhiên và khách quan của con người, với tư cách là con người và với tư cách là thành viên xã hội, được đảm bảo bằng hệ thống chính sách bạo lực quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị con người trong các quan hệ vật chất, văn hóa, tinh thần, các nhu cầu tự do và phát triển Khi quyền lực nhà nước bị lạm dụng có nghĩa là chủ thể sở hữu quyền lực ấy sẽ sử dụng nhà nước phục vụ cho lợi ích của cá nhân. Một khi lợi ích cá nhân được đặt lên hàng đầu thì tất yếu sẽ dẫn đến xâm phạm lợi ích của người khác. Lúc ấy, sự hạn chế quyền lực nhà nước là một vấn đề cấp thiết cần đặt lên hàng đầu trong bối cảnh xã hội phát triển và quyền con người được đề cao, phát triển, đảm bảo.
Điều nguy hiểm khi lạm dụng quyền lực nhà nước ở chỗ, nhà nước có quyền lực công khai. Một thứ gì đó khi đã công khai trước toàn thể xã hội thì con người trong xã hội sẽ nghĩ rằng thứ đó đặt dưới tầm kiểm soát của họ và họ dễ dàng kiểm soát nó. Vì vậy, một khi một cá nhân sử dụng quyền lực nhà nước vì mục đích riêng của bản thân thì trong xã hội, mọi người nghĩ đến điều đó là rất thấp và lơ là cảnh giác. Như bạn nghĩ người bạn mời vào nhà sẽ không trộm đồ nhưng thật ra chính nó là kẻ trộm gian xảo.
Chính vì những cơ sở lý luận trên mà sự hạn chế hay giới hạn quyền lực nhà nước là rất cần thiết.
Cơ sở thực tiễn
Nhìn lịch sử phát triển của thế giới từ khi có nhà nước đến nay, đối với nhà nước phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung vào tay nhà vua. Nếu nhà vua ấy có lòng thiện, lấy dân làm gốc, coi dân là con đẻ thì nhà nước ấy sẽ phát triển bền vững. Nhưng nếu nhà vua ấy lạm dụng quyền lực, sa đọa, tha hóa,… thì khi ấy quyền lực nhà nước trở thành mối nguy cho cộng đồng và nhà nước ấy sẽ không thể tồn lại lâu dài. Như chúa Trịnh Giang, ngay khi lên nắm quyền chúa, Trịnh Giang đã sớm sử dụng quyền lực của mình để có thể hưởng lạc ái ân, cho xây dựng nhiều cung quán, chùa chiền rất nguy nga và tốn kém... 5 bắt dân nộp thuế sưu nặng nề, tốn sức người sức của, giảm sự phát triển của đất nước.
Ở Đức thời kỳ phát xít, quyền lực tập trung vào tay Hít-le, những người theo đảng phái này coi Hít-le là chân lý sống phục tùng vô điều kiện bất luận đúng sai. Hít-le sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện các hành động phi đạo đức, phi nhân đạo với tư tưởng bắt mọi dân tộc trên thế giới phải phục tùng người Đức, phải phục tùng mình.
Ở Việt Nam hiện nay, với một nhà nước xã hội chủ nghĩa thì việc hạn chế quyền lực nhà nước vẫn là một vấn đề mà toàn thể cộng đồng và đặc biệt là các cơ quan nhà nước cần quan tâm. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tình trạng tham nhũng của các quan chức nhà nước: vụ tham nhũng của Dương Chí Dũng (nguyên cục trưởng Hàng Hải, Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn Vinalines) và các đồng phạm bị cơ quan điều tra đề nghị truy tố về 2 tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thất thoát và bỏ túi hàng trăm tỷ đồng
Các phương thức hạn chế quyền lực nhà nước
Phân quyền: Quyền lực nhà nước được chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan của nhà nước sẽ nắm giữ một quyền hạn riêng và giữa các cơ quan có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau.
Chủ nghĩa lập hiến: cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước phải phù hợp với hiến pháp. Đồng thời xác định quyền của cá nhân trong hiến pháp như là một sự bảo vệ trước sự lạm quyền của nhà nước.
Ghi nhận quyền con người và quyền cơ bản, sự giám sát của nhân dân: Mục đích cao cả của giới hạn quyền lực là thực hiện dân chủ, mở rộng sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Kiểm soát quyền lực nhà nước có thể bằng cách ghi nhận quyền con người và quyền công dân ở vị trí “thiêng liêng” nhất trong hiến pháp.
Giám sát từ bên ngoài:quyền lực nhà nước cũng phải bị chế ngự từ bên ngoài. Sự chế ngự phải chính đáng và thể hiện ý chí tiến bộ của nhân loại nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền con người hoặc thảm họa diệt chủng. Mặc dù còn quá sớm để nói đến một nhà nước toàn cầu nhưng cần có những tổ chức quốc tế hợp pháp, chính đáng nhằm chế ngự một số nhà nước chuyên quyền.
Nói cho cùng, không có phương pháp nào là vạn năng, vì vậy cần có sự kết hợp các phương pháp hạn chế quyền lực nhà nước.