Người ta coi vận đơn đường biển như là một chứng từ xác nhận sự hiện diện của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.Thật vậy, Luật ngày 18-6-1966 quy định người vận chuyển sau khi giao hàng phải trao lại cho người giao hàng một vận đơn.
 

1. Vận đơn là gì?

Vận tải đơn (thường hay gọi là vận đơn đường biển, vận đơn hàng không, giấy gửi hàng đường sắt,…) là một chứng từ vận tải do người vận chuyển, hoặc thuyền trưởng (đường biển) hoặc đại lý của người vận chuyển ký phát sau khi hàng hóa đã được xếp lên tàu hoặc hàng hóa đã được nhận và chờ xếp lên tàu.

Chức năng của vận đơn:
+ Nó là bằng chứng xác nhận hợp đồng vận tải đã được ký kết và chỉ rõ nội dung của hợp đồng đó. Với chức năng này, nó xác định quan hệ pháp lý giữa người vận tải và người chủ hàng, mà trong đó, đặc biệt là quan hệ pháp lý giữa người vận tải và người nhận hàng.
+ Nó là biên lai của người vận tải xác nhận đã nhận hàng để chuyên chở. Người vận tải chỉ giao hàng cho người nào xuất trình trước tiên vận đơn đường biển hợp lệ mà họ đã ký phát ở cảng xếp hàng.
+ Nó là chứng từ xác nhận quyền sở hữu đối với những hàng hóa đã ghi trên vận đơn. Với chức năng này, vận đơn là một loại giấy tờ có giá trị, được dùng để cầm cố, mua bán, chuyển nhượng.
Tác dụng của vận đơn:
+ Làm căn cứ khai hải quan, làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa,
+ Làm tài liệu kèm theo hóa đơn thương mại trong bộ chứng từ mà người bán gửi cho người mua (hoặc ngân hàng) để thanh toán tiền hàng,
+ Làm chứng từ để cầm cố, mua bán, chuyển nhượng hàng hóa,
+ Làm căn cứ xác định số lượng hàng hóa đã được người bán gửi cho người mua, dựa vào đó người ta thống kê, ghi sổ và theo dõi việc thực hiện hợp đồng.
Nội dung của vận đơn: thường chú ý đến những điểm sau đây
– Tên và địa chỉ người vận tải, những chỉ dẫn khác theo yêu cầu,
– Cảng xếp hàng,
– Cảng dỡ hàng
– Tên và địa chỉ người gửi hàng
– Tên và địa chỉ người nhận hàng, (rất quan trọng)
– Đại lý, bên thông báo chỉ định,
– Tên hàng, ký mã hiệu, số lượng kiện, trọng lượng cả bì hoặc thể tích,
– Cước phí và phụ phí trả cho người vận tải, điều kiện thanh toán,
– Thời gian và địa điểm cấp vận đơn,
– Số bản gốc vận đơn,
– Chữ ký của người vận tải (hoặc của thuyền trưởng hoặc người đại diện của thuyền trưởng, hoặc đại lý),
 

2. Vận đơn đường biển là gì?

Vận đơn đường biển, (Viết tắt là B/L - Bill Of Lading) Là chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển do người vận chuyển lập, ký và cấp cho người gửi hàng trong đó người vận chuyển xác nhận đã nhận một số hàng nhất định để vận chuyển bằng tàu biển và cam kết giao số hàng đó cho người có quyền nhận hàng tại cảng đích với chất lượng tốt và số lượng đầy đủ như biên nhận.

Là chứng từ rất quan trọng, về nghiệp vụ giữa người gửi hàng với người vận tải, giữa người gửi hàng với người nhận hàng. Nó như là một bằng chứng về giao dịch hàng hóa, là bằng chứng có hợp đồng chuyên chở.

 

3. Chức năng của vận đơn đường biển

Vận đơn đường biển có các chức năng sau:
Là biên lai của người chuyên chở (chủ tàu, thuyền trưởng, đại lý hoặc người làm thuê cho chủ tàu) giao cho người gửi hàng, xác nhận số lượng, chủng loại, tình trạng hàng mà người chuyên chở nhận lên tàu.
Là bằng chứng về những điều khoản của một hợp đồng vận tải đường biển.
Vận đơn gốc là một chứng từ trao quyền sở hữu prīmā faciē (khi xuất trình đầu tiên) đối với hàng hóa cho người nhận hàng được chỉ định trong vận đơn hay cho người nắm giữ hợp pháp vận đơn. Theo nguyên tắc "nemo dat quod non habet" ("không ai có thể trao cái mà ông ta không có") thì người bán không thể chuyển giao quyền sở hữu tốt hơn quyền sở hữu mà bản thân người đó đang có; vì thế nếu hàng hóa phải chịu ràng buộc (như cầm cố, chịu phí hay thế nợ), hoặc thậm chí bị trộm cắp, thì vận đơn sẽ không đảm bảo trao quyền sở hữu đầy đủ cho người nắm giữ vận đơn.
Là công cụ chuyển nhượng. Vận đơn có thể được giao dịch theo cách giống như giao dịch hàng hóa, và thậm chí có thể được vay mượn nếu mong muốn (như chiết khấu để vay tiền ngân hàng; cầm cố như một loại tài sản để xin cấp tín dụng). Chính vì chức năng đặc biệt này mà việc thay thế B/L bằng thủ tục EDI (trao đổi chứng từ điện tử) là việc rất khó khăn hiện nay.
 

4. Hình thức vận đơn đường biển

Mỗi vận đơn phải được làm ít nhất hai bản: một cho người giao hàng và một cho thuyền trưởng.
Chậm nhất là hai mươi bốn giờ sau khi bốc xếp xong, những văn bản chính sẽ được ký giữa người vận chuyển hay đại diện của họ và người giao hàng. Nên nhớ rằng, vận đơn là một chứng khoán giao dịch được, có thể chuyển nhượng cho người mang phiếu bằng cách ký hậu ( tức là ghi sự chuyển nhượng vào mặt sau).
Vận đơn đường biển được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực, có tính lưu thông và liên quan đến nhiều bên, nhưng cho đến nay, trên phạm vi quốc tế cũng như phạm vi quốc gia, chưa có một mẫu vận đơn thống nhất dùng chung trong vận tải hàng hoá bằng đường biển. học nghiệp vụ xuất nhập khẩu ở đâu
Trên thực tế, vận đơn đường biển do người chuyên chở tự in ấn và phát hành cho người gửi hàng, do đó, điều hiển nhiên là mỗi hãng tàu thường có mẫu vận đơn cho riêng mình, với cách bố trí, màu sắc và nội dung không đồng nhất với nhau. Do được tự do in ấn và phát hành, nên các hãng tàu thường thiết kế và in sẵn mẫu vận đơn cho mình.

Ngoài mục đích làm chứng tự vận tải, hình thức vận đơn còn thường được thiết kế và in ấn sao cho nó phản ánh được thương hiệu của hãng tàu trên thị trường kinh doanh. Chính vì sự đa dạng và phong phú về nội dung và hình thức, nên khi sử dụng vận đơn cần chú ý đến những đặc điểm về hình thức khác nhau của vận đơn

Hình thức phổ biến nhất là loại vận đơn đường biển thông thường, chỉ sử dụng trong chuyên chở hàng hoá bằng đường biển (trên vận đơn chỉ ghi Bill of lading. Loại vận đơn này là loại vận đơn truyền thống đang dần được thay thế bởi loại vận đơn phát hành dùng cho nhiều mục đích, nhiều phương thức chuyên chở. Ðó là:

– Loại vận đơn dùng cho cả vận tải đơn phương thức và đa phương thức: trên vận đơn ghi: “bill of lading for combined transport shipment or port shipment”. Loại chứng từ này được hiểu là vận đơn đường biển và có thể chuyển nhượng được trừ phi người phát hành đánh dấu vào ô “Seaway bill, non negotiable”.

– Vận đơn dùng cho cả lưu thông và không lưu thông: “bill of lading not negotiable unless consigned to order” (vận đơn này không chuyển nhượng được trừ phi phát hành theo lệnh)….
Như vậy nhìn vào hình thức vận đơn chúng ta không biết đươc nó là loại nào, giá trị pháp lý như thế nào. Muốn xác định cụ thể ta lại phải xem xét đến các nội dung thể hiện trên vận đơn.

a) Giấy gửi hàng đường biển (seaway bill)

Vận đơn là một trong những chứng từ quan trọng nhất của mua bán quốc tế khi hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển. Tuy vậy, dần dần vận đơn đã bộc lộ nhiều nhược điểm như:

Thứ nhất: nhiều khi hàng hoá đã đến cảng dỡ hàng nhưng người nhận không có vận đơn (B/L) để nhận hàng vì thời gian hành trình của hàng hoá trên biển ngắn hơn thời gian gửi bill từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng.

Thứ hai: B/L không thích hợp với việc áp dụng các phương tiện truyền số liệu hiện đại tự động (fax, teleax…) bởi việc sử dụng B/L trong thanh toán, nhận hàng…. đòi hỏi phải có chứng từ gốc.

Thứ ba: việc in ấn B/L đòi hỏi nhiều công sức và tốn kém bởi chữ in mặt sau của B/L thường rất nhỏ, khoảng 0,3mm để chống làm giả.

Thứ tư: việc sử dụng B/L có thể gặp rủi ro trong việc giao nhận hàng hoá (nếu đơn vị bị mất cắp) vì B/L là chứng từ sở hữu hàng hoá….

Như vậy một loại chứng từ mới có thể thay thế được cho B/L và có chức năng tương tự như B/L đã ra đời. Ðó là giấy gửi hàng đường biển (seaway bill).

b) Sử dụng seaway bill có thể khắc phục được những tồn tại đã phát sinh của vận đơn hàng hóa

Thứ nhất: khi sử dụng seaway bill người nhận hàng có thể nhận được hàng hoá ngày khi tầu đến cảng dỡ hàng hoá mà không nhất thiết phải xuất trình vận đơn đường biển gốc vì seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá. Hàng hoá sẽ được người chuyên chở giao cho người nhận hàng trên cơ sở những điều kiện của người chuyên chở hoặc một tổ chức quản lý hàng hoá tại cảng đến.

Thứ hai: seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá, do đó người ta không nhất thiết phải gửi ngay bản gốc cho người nhận hàng ở cảng đến mà có thể gửi bản sao qua hệ thống truyền số liệu tự động. Như vậy đồng thời với việc xếp hàng lên tầu, người xuất khẩu có thể gửi ngày lập tức seaway bill cho người nhận hàng trong vòng vài phút. Người nhận hàng cũng như người chuyên chở không phải lo lắng khi giao nhận mà không có chứng từ.

Thứ ba: khi sử dụng seaway bill, việc in các điều khoản bằng chữ rất nhỏ ở mặt sau được thay thế bằng việc dẫn chiếu đến các điều kiện, quy định liên quan đến dịch vụ vận chuyển ở mặt trước bằng một điều khoản ngắn gọn. Mặt khác người chuyên chở chỉ cần phát hành 1 bản gốc seaway bill trong khi phải phát hành tối thiểu 1 bộ 3 bản gốc nếu sử dụng B/L.

Thứ tư: seaway bill cho phép giao hàng cho một người duy nhất khi họ chứng minh họ là người nhận hàng hợp pháp. Ðiều này giúp cho các bên hữu quan hạn chế được rất nhiều rủi ro trong việc giao nhận hàng, không những thế, vì seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá nên khi bị mất hay thất lạc thì cũng không ra hậu quả nghiêm trọng nào.

 

5. Nội dung của vận đơn đường biển

Vận đơn phải ghi :
- Các bên của hợp đồng; .
- Phạm vi hành trình phải thực hiện;
- Cước vận chuyển phải trả;
- Các hàng hóa vận chuyển.
về điểm cuối cùng này, vận đơn phải ghi rõ những ký mã hiệu chính nhận biết hàng hóa mà người giao hàng đã thông báo bằng văn bản trước khi bốc hàng. Đồng thời, vận đơn cũng phải ghi (tùy theo trường hợp) số lượng các kiện hàng và đồ vật, số lượng và trọng lượng của chúng. Vận đơn còn phải chỉ rõ tình trạng và sự đóng gói bên ngoài của hàng hóa.
Người chuyên chở hay người đại diện của họ có thể từ chối ghi vào vận đơn những lời khai báo của người giao hàng về ký mã hiệu, số lượng, chất lượng , hay tình trạng của các hàng hóa. Nhưng muốn cho sự từ chối này được chấp nhận, người chuyên chở, trước hết phải có những lý do thật nghiêm túc để nghi ngờ sự chính xác của các lời khai đó; thứ đến là không có đủ phương tiện bình thường để kiểm soát những lời khai ấy; và cuối cùng là phải có một ghi chú đặc biệt vào vận đơn nêu rõ những lý do ấy và tại sao không đủ khả năng tiến hành kiểm định.
Nếu sự từ chối ấy được chấp nhận thì trách nhiệm chứng minh những thiệt hại có thể xảy ra không còn thuộc về người giao hàng mà về người chủ sồ hữu đứng gửi hàng hoặc người tiếp nhận hàng đó.
Mặt khác, có thể đưa hàng gửi lên boong tầu nhưng trong trường hợp này, phải có sự thỏa thuận của người giao hàng và sự đồng ý ấy phải được ghi chú vào vận đơn.

Trên đây là tư vấn của Luật Minh Khuê về  vận đơn đường biển . Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!