Mục lục bài viết
1. Khái niệm lỗi vô ý
Lỗi vô ý là lỗi trong trường hợp, chủ thể khi quyết định thực hiện hành vi không ý thức được hành vi đó sẽ là hành vi có tính chất phạm tội nhưng có đủ điều kiện ý thức được.Lỗi vô ý là một trong hai loại lỗi theo Luật hình sự Việt Nam. Trong đó, lỗi vô ý có tính nguy hiểm thấp hơn. Loại lỗi này đòi hỏi các dấu hiệu: Hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện là hành vi có tính chất phạm tội (hành vi có các dấu hiệu khách quan mà cấu thành tội phạm đòi hỏi); Chủ thể đã lựa chọn hành vi này do không ý thức được tính chất phạm tội của nó;
Chủ thể có đủ điều kiện ý thức được tính chất phạm tội của hành vi lựa chọn cũng như có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không nguy hiểm cho xã hội.
Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Điều 11. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
2. Phân loại lỗi vô ý
Căn cứ vào lí do của việc chủ thể không ý thức được hành vi thực hiện sẽ là hành vi gây thiệt hại có tính chất phạm tội, lỗi vô ý được chia thành vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp vô ý, trong đó chủ thể sở dĩ quyết định thực hiện hành vi vì đã loại trừ khả năng hành vi đó sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hậu quả thiệt hại nhưng sau khi cân nhắc đã loại trừ khả năng hậu quả này xảy ra. Việc loại trừ khả năng này là do chủ thể đã không cân nhắc cẩn thận trong khi các điều kiện cho phép chủ thể có thể cân nhắc cẩn thận để không dẫn đến việc loại trừ khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi một cách thiếu cơ sở đầy đủ.
Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp lỗi vô ý, trong đó, chủ thể đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của họ đã gây ra và việc không thấy trước đó hoàn toàn do chủ quan của chủ thể đã không có sự thận trọng cần thiết. Trong trường hợp vô ý vì cẩu thả, điều kiện đủ cho phép chủ thể có thể thấy trước và tránh được hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã gây ra. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội là do chủ quan của họ. Ví dự: do vội vàng đã phát thuốc nhầm cho bệnh nhân dẫn đến tử vong.
Cụ thể, Theo khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự") vô ý phạm tội do cẩu thả là trường hợp: "Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó".
3. Lỗi cố ý gián tiếp hay lỗi vô ý vì quá tự tin dưới
Theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi 2017):
4. So sánh lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lí của những trường hợp có lỗi vô ý, Luật hình sự Việt Nam xác định: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
5. So sánh lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp
Tiêu chí | Lỗi cố ý trực tiếp | Lỗi cố ý gián tiếp | Lỗi vô ý do cẩu thả |
Căn cứ pháp lý | Khoản 1 Điều 10 BLHS 2015 | Khoản 2 Điều 10 BLHS 2015 | Khoản 2 Điều 11 BLHS 2015 |
Khái niệm | Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; | Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. | Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. |
Về mặt lý trí | Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. | Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. | Phải thấy trước hậu quả nhưng lại không thấy trước được hậu quả đó. |
Về mặt ý chí | Sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó. | Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tức hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra. | Người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra |
Nguyên nhân gây ra hậu quả | Có sự cố ý | Có sự cố ý | Do sự cẩu thả |
Trách nhiệm hình sự | Cao nhất | Cao hơn | Thấp hơn |
Ví dụ | C và D xảy ra mâu thuẩn, C dùng dao đâm D với ý muốn giết D. Rõ ràng C ý thức được việc mình làm là nguy hiểm và mong muốn hậu quả chết người người xảy ra. | B giăng lưới điện để chống trộm đột nhập nhưng không có cảnh báo an toàn dẫn đến chết người. Dù B không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra nên đây là lỗi cố ý gián tiếp | A là kế toán doanh nghiệp, khi nhập dữ liệu, A đã sơ ý bỏ sót một số 0 trong số tiền cần chuyển cho đối tác, hành vi này của A đã khiến công ty thiệt hại, trong trường hợp này, A là kế toán và phải biết được chỉ một hành vi sơ xuất cũng sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn. |
Đồng thời, chúng ta có thể phân biệt lỗi vô ý và lỗi cố ý theo quy định của Bộ luật hình sự như sau:
- Lỗi vô ý: Có 2 dạng lỗi vô ý: Lỗi vô ý vì quá tự tin và Lỗi vô ý vì cẩu thả
+ Vô ý phạm tội vì quá tự tin: là lỗi của người trong trường hợp thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; vì vậy đã thực hiện hành vi và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
- Về lý trí: Người phạm tội thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là chủ thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội từ chính hành vi mà mình thực hiện.
- Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
+ Vô ý phạm tội vì cẩu thả: là lỗi của 1 người trong trường hợp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội vì cẩu thả đã không thấy trước hậu quả đó mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước được
- Lỗi cố ý: Có 2 dạng lỗi cố ý: Lỗi cố ý trực tiếp và Lỗi cố ý gián tiếp
+ Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của 1 người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó
- Về lý trí: đối với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ; đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi đó.
- Về ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Tức là hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích và phù hợp với dự mong muốn của người đó
+ Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của 1 người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra
- Về lý trí: họ cũng nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; cũng thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ có thể gây ra
- Về ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả đó mà họ có thái độ để mặc cho nó xảy ra. Tuy nhiên; họ mong muốn hành vi nguy hiểm được thực hiện để đạt được mục đích khác của họ. Vì vậy, họ chấp nhận hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi.
Mọi vướng mắc pháp lý Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê tư vấn trực tuyến.