Căn cứ pháp lý:

- Hiến pháp năm 1959;

- Hiến pháp năm 1980;

- Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001);

- Hiến pháp năm 2013;

- Nghị quyết sô 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.

Qua 30 năm đổi mới, cùng với những thành tựu về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại... việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới - một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cụ thể là:

1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Có thể nói, việc thay đổi mô hình kinh tế đã làm thay đổi vai trò, vị trí và chức năng của Nhà nước nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng trong các mối quan hệ với đời sống kinh tế của đất nước. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy nhà nước đã dần được cơ cấu lại theo hướng mở rộng xã hội hóa, tăng cường vai trò, trách nhiệm của cộng đồng, Nhà nước chỉ đảm nhiệm những công việc thực sự cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội, vì sự phát triển của toàn xã hội hoặc những gì mà mỗi cá nhân công dân không thể tự mình giải quyết nếu thiếu sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Trong mối quan hệ với công dân, bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đang dần chuyển từ tư duy lãnh đạo, quyền uy - phục tùng sang tư duy về nhà nước phục vụ, cán bộ, công chức có nghĩa vụ, trách nhiệm phục vụ nhân dân, thực sự trở thành “công bộc” của nhân dân.

Chính những thay đổi trong tư duy về vai trò, chức năng của Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức trên đây đã góp phần đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của quá trình đổi mới đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, đã phân định rõ nhiệm vụ quản lý, định hướng của Nhà nước với vai trò sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước không can thiệp mà tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, đồng thời kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Trong lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, với việc phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm của sự phát triển, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện chính sách về các lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong lĩnh vực đối ngoại, nước ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước trên thế giới. Đồng thời, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bảo đảm ổn định và phát triển.

2. Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

 Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước, đã trở thành yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, yếu tố quy định mối quan hệ quyền lực và pháp luật, yếu tố bảo đảm để ý chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước, thành các quy phạm pháp luật có hiệu lực cao là Hiến pháp và luật.

Quốc hội được giao quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong đó, lập pháp là một trong những chức năng cơ bản nhất của Quốc hội, nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành các quy định của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động này ngày càng được đổi mới, tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ sau đổi mới đến nay, nước ta đã có Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013; Quốc hội đã thông qua hơn 300 luật, bộ luật và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua 186 pháp lệnh đã tạo nên cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đã đạt được những kết quả đáng kể, góp phần bảo đảm cho bộ máy nhà nước và các cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm Hiến pháp, pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Vai trò của Quốc hội còn được thể hiện thông qua việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách nhà nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập các cơ quan cấp cao nhà nước; bầu, phê chuẩn các chức danh cấp cao trong bộ máy nhà nước và quyết định các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại của nước ta... Có thể nói, hoạt động của Quốc hội ngày càng được đổi mới, dân chủ, hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu và mong mỏi của các tầng lớp nhân dân.

3. Vai trò của chủ tịch nước trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một bước tiến quan trọng do việc thay đổi chế định người đứng đầu Nhà nước từ cơ chế Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Hội đồng Nhà nước) sang cơ chế người đứng đầu Nhà nước là cá nhân, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, có thẩm quyền liên quan đến việc thực hiện cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan, Chủ tịch nước trong các nhiệm kỳ qua đã phát huy tốt vị trí, vai trò của mình trên các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của đất nước. Trong công tác đối nội, Chủ tịch nước đã giữ được mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội, thống lĩnh lực lượng vũ trang, là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Trong công tác đối ngoại, Chủ tịch nước đã thể hiện rõ vai trò của người đại diện cho quốc gia, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác về nhiều mặt giữa Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

4. Vai trò của chính phủ trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Chính phủ đã có một bước đổi mới căn bản cả về tổ chức và phương thức hoạt động, từ Chính phủ tập thể (Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959, Hội đồng Bộ trưởng trong Hiến pháp năm 1980) sang kết hợp giữa chế độ trách nhiệm của tập thể Chính phủ và vai trò cá nhân của Thủ tướng Chính phủ. Hiến pháp 2013 đã xác định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Chính phủ tập trung và chủ động hơn trong việc xây dựng và điều hành chính sách, tổ chức thi hành pháp luật và lãnh đạo hệ thống hành chính quốc gia; thực hiện cải cách hành chính theo hướng xây dựng nền hành chính phục vụ. Vì vậy, trong thời gian qua, chức năng của Chính phủ và các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từng bước được đổi mới, điều chỉnh, bảo đảm sự phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện cơ chế kinh tế mới và chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế. Chính phủ tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước, điều hành vĩ mô trên các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội theo pháp luật trong phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương luôn được cải tiến, từng bước khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, nhiều tầng nấc trung gian. Phương thức hoạt động của Chính phủ có nhiều đổi mới quan trọng, cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh hành chính được thay thế bởi cơ chế quản lý bằng pháp luật. Thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức được chú trọng cải cách và được xác định là khâu đột phá trong cải cách hành chính; vị trí và vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với người dân và doanh nghiệp đã được đổi mới theo hướng phục vụ và quản lý. Có thể nói, hoạt động của Chính phủ, các bộ ngày càng chuyên nghiệp hơn, công khai, minh bạch hơn, đáp ứng tốt hơn các nhiệm vụ quản lý và điều hành đất nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần đưa đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn, vượt qua khủng hoảng kinh tế để đạt được nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn vừa qua.

5. Vai trò của Tòa án nhân dân trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án trong thời gian qua đang được nghiên cứu để đổi mới, cải cách hơn nữa theo hướng “tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” , mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án, đặc biệt là thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính, qua đó, tăng cường khả năng kiểm soát của tư pháp đối với hệ thống cơ quan hành chính. Việc xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự và các vụ án hành chính của Tòa án bảo đảm đúng pháp luật, cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội trong vụ án hình sự và bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính; yêu cầu tranh tụng đã bước đầu được thực hiện trong hoạt động tố tụng, qua đó các quyền con người, quyền công dân ngày càng được đề cao, tôn trọng và đảm bảo. Trách nhiệm của Tòa án, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được xác định rõ ràng, cụ thể hơn. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán tiếp tục được thực hiện có kết quả. Những kết quả này đã góp phần bảo đảm các mục tiêu, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

6. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân

+ Viện kiểm sát nhân dân với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ngày càng được đổi mới cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Kết quả thực hiện chức năng của Viện kiểm sát đã góp phần bảo đảm các mục tiêu, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, góp phần vào việc hình thành và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, tránh sự lạm quyền, xâm phạm các quyền dân chủ của công dân, bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án, vụ việc.

7. Vai trò của Kiểm toán nhà nước

Kiểm toán nhà nước với địa vị là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, là công cụ phục vụ cho sự minh bạch về tài chính ngân sách thông qua việc công khai kết quả kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức, các cấp ngân sách. Hoạt động kiểm toán nhà nước là cơ sở cho việc giám sát của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và của công dân đối với công tác quản lý tài chính ngân sách, đặc biệt là các nguồn lực tài chính nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm toán, có thế phát hiện những hiện tượng, những dấu hiệu tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp luật trong quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài sản nhà nước để có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm. Trong những năm vừa qua, Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực vào việc phát hiện, xử lý vi phạm đối với nhiều vụ việc xảy ra thất thoát, tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thu - chi ngân sách, quản lý tài sản công và hệ thống ngân hàng thương mại... Chính vì vậy, để nâng cao vị trí, vai trò của cơ quan này, Hiến pháp năm 2013 đã có một điều quy định về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.

8. Vai trò của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là những cơ quan chính quyền địa phương. Qua quá trình đổi mới, thể chế về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ngày càng được chú trọng. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (năm 2003), các luật chuyên ngành đã được xây dựng theo tinh thần kiện toàn tổ chức, tăng cường chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân; phân định thẩm quyền giữa Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp, giữa mỗi cấp chính quyền địa phương tỉnh - huyện - xã, giữa tập thể Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Vì vậy, trong thời gian qua, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đã từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Việc quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng ở địa phương của Hội đồng nhân dân đạt được nhiều kết quả, tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành kinh tế - xã hội ở địa phương; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân ngày càng được tăng cường, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, Ủy ban nhân dân đã thực hiện đúng vai trò là hành chính nhà nước ở địa phương, đề xuất để Hội đồng nhân dân quyết định các chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển địa phương; chủ động thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Từ năm 2009, thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ra nghị quyết thí điếm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là bước đệm quan trọng để làm cơ sở xác định mô hình chính quyền địa phương mới nhằm tinh gọn bộ máy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp địa phương.