Khách hàng Q: Kính thưa Luật sư, em tên Q ở huyện SJ, tỉnh Daknong. Vào tháng trước trong làng em có một anh, anh tên G và 25 tuổi, đã lấy vợ và 1 con 2 tuổi. Do mâu thuẫn với ông F hàng xóm, thấy rằng vợ mình có quan hệ ngoài luồng với ông F và không ngồi lại nói chuyện được với nhau nên anh G và ông F đã có hành vi xô xát, đánh chửi nhau, dẫn đến anh G dùng dao chém liên tiếp vào ông F, vì mất máu quá nhiều nên ông F đã chết. Em biết hành vi của anh G là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Vậy anh ấy đã có đủ dấu hiệu cấu thành "Tội phạm" theo quy định pháp luật hình sự đúng không ạ? Luật sư có thể phân tích rõ hơn để em hiểu một người như thế nào được gọi là tội phạm? Có phải ai vi phạm luật hình sự đều coi là tội phạm không?
Em cảm ơn Luật sư!
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật Minh Khuê. Đại diện cho Công ty, mình xin trả lời những câu hỏi của bạn như sau:
1. Cơ sở pháp lý quy định "Tội phạm".
Tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã đưa ra khái niệm tội phạm như sau:
"1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác."
2. Dấu hiệu "nguy hiểm cho xã hội"
Có thể thấy tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất và quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Do có tính nguy hiểm cho xã hội nên hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự là tội phạm và phải bị xử lý hình sự. Nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về nội dung của tội phạm. Dấu hiệu này quy định dấu hiệu về hình thức của tội phạm là dấu hiệu được quy định trong Bộ luật hình sự. Sự nguy hiểm cho xã hội có thể do điều kiện khách quan hoặc do ý chí về chủ quan. Trong đó, tính gây thiệt hại có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình Sự bảo vệ.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc vào tính khách quan. Một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội hay không cũng như tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó ở mức đệ nào chỉ phụ thuộc các yếu tố khách quan mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ ai. Các yếu tố khách quan đó có thế là:
3. Dấu hiệu "được quy định trong Bộ luật Hình sự"
Theo khoản 1 Điều 8: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự..."
Như vậy, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu được quy định cụ thể, chi tiết trong Bộ luật hình sự.
Tội phạm được quy định cụ thể, chi tiết trong Bộ luật hình sự tức là phải có tên Điều, khoản đầy đủ và tội phạm đó được mô tả cụ thể trong từng Điểm, khoản, Điều chi tiết.
Việc xác định “được quy định trong Bộ luật hình sự” là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho việc chống tội phạm được thống nhất, tránh tuỳ tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp phải kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm hiện hành, tránh sự thiếu sót trong quy định so với thực tiễn. Mặc dù "được quy định trong Bộ luật hình sự" chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý, còn "tính nguy hiểm cho xã hội" là dấu hiệu về mặt nội dung của tội phạm nhưng vẫn có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng. Hai dấu hiệu - tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong Bộ luật hình sự có quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Dấu hiệu được quy định trong Bộ luật hình sự tuy có tính độc lập tương đối nhưng cũng là dấu hiệu được xác định bởi tính nguy hiểm cho xã hội.
Với tình huống anh G đã chém chết ông F, nếu phân tích đầy đủ về các dấu hiệu cấu thành tội phạm, anh G có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Giết người được quy định cụ thể tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
"Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm."
4. Dấu hiệu "do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện"
Khi một chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì chủ thể đó phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Bởi vì năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi hoặc không khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm.
Năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân bao gồm năng lực nhận thức hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình, khả năng điều khiển hành vi đó và khả năng gánh lấy hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự từ hành vi nguy hiểm đó gây ra. tóm lại, năng lực trách nhiệm hình sự được hợp thành từ hai yếu tố: Khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi (không thuộc trường họp mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)) ;Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật này.
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Đồng thời, năng lực trách nhiệm hình sự cũng là điều kiện để chủ thể thực hiện hành vi có thể có lỗi. Do có ý nghĩa như vậy nên dấu hiệu về chủ thể “có năng lực trách nhiệm hình sự” cần được coi là một dấu hiệu của tội phạm.
Với trường hợp anh G, anh ấy hoàn toàn là người có năng lực trách nhiệm hình sự chịu trách nhiệm về hành vi của mình gây ra.
Theo Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:
"Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự)."
Điều 21 Bộ luật này cũng quy định:
"Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự."
Vậy theo thông tin bạn cung cấp anh G 25 tuổi và đã có vợ con, anh G hoàn toàn đủ tỉnh táo, có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi giết người của mình.
5. Dấu hiệu "Lỗi" của chủ thể
Hiện nay, pháp luật Việt Nam nói chung và Bộ luật Hình sự Việt Nam nói riêng không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội (ví dụ đã thực hiện hành vi giết người) mà không căn cứ vào lỗi của họ (là lỗi cố ý hay vô ý). Bởi việc áp dụng hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà qua đó còn nhằm mục đích giáo dục ý thức tuân theo hiến pháp và pháp luật, phòng ngừa tội phạm xảy ra. Mục đích giáo dục này chỉ có thể đạt được khi hình phạt được áp dụng cho người có lỗi. Do vậy, “có lỗi cố ý hoặc vô ý” phải được xác định là một nguyên tắc của luật hình sự và là một dấu hiệu quan trọng của tội phạm.
Lỗi cố ý hoặc vô ý mà thực hiện hành vi phạm tội cũng được quy định cụ thể tại Điều 10 và Điều 11 Bộ luật này.
Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Điều 11. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
6. Dấu hiệu "phải xử lý hình sự"
"Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự."
Theo như tình huống bạn cung cấp ở trên anh G không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn chấp hành hình phạt của Bộ luật này. Anh G đã có đủ dấu hiệu cấu thành "Tội phạm" theo quy định pháp luật hình sự như mình đã phân ở phía trên.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Xem thêm: Phân loại cấu thành tội phạm? Ý nghĩa của cấu thành tội phạm?