1. Khái quát Bộ Bảo vệ Môi trường Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 

Bộ Bảo vệ Môi trường Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (MEP), trước đây là Cục Quản lý Môi trường của Chính phủ (SEPA), là một Bộ của Chính phủ Trung Quốc. Bộ Môi trường thay thế Cục Quản lý Môi trường trong cuộc họp của Quốc hội Trung Quốc vào tháng 3 năm 2008 tại Bắc Kinh.

Bộ Bảo vệ Môi trường là cơ quan điều hành, chỉ đạo về môi trường của quốc gia chịu trách nhiệm bảo vệ không khí, nước và đất của Trung Quốc khỏi ô nhiễm. Bộ trực thuộc Quốc vụ viện, cơ quan có thẩm quyền và yêu cầu pháp luật thực hiện chính sách môi trường và thực thi luật và các quy định về môi trường. Ngoài ra, Bộ còn là cơ quan an toàn hạt nhân của Trung Quốc.

Năm 2018, Bộ Bảo vệ Môi trường được giải thể, chuyển thể thành Bộ Hoàn cảnh Sinh thái.

2. Luật Bảo vệ Môi trường của Trung Quốc

1. Luật Bảo vệ Môi trường của Trung Quốc sửa đổi năm 2014 có hiệu lực từ ngày 1/1/2015. Với mục tiêu tạo ra thay đổi toàn diện nhận thức và hành vi của toàn xã hội cũng như của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế Trung Quốc, nhiều nội dung trong Luật được sửa đổi theo hướng xử lý nghiêm các vi phạm. Một số điểm nổi bật là:

- Thực hiện nguyên tắc "Ai gây ra ô nhiễm, người đó phải chịu trách nhiệm xử lý" và cơ chế mua bảo hiểm trách nhiệm môi trường bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất. Các công ty bảo hiểm sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người dân chịu ảnh hưởng khi xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp mua bảo hiểm gây ra.

- Tăng xử phạt nặng các hành vi vi phạm. Ví dụ phạt theo ngày vi phạm, nếu doanh nghiệp có hành vi vi phạm, trong thời hạn nhất định không tiến hành xử lý triệt để, khi tái kiểm tra, nếu phát hiện vi phạm sẽ bị phạt theo cấp số nhân với số ngày vi phạm.

- Quy trách nhiệm trực tiếp cho các cấp chính quyền địa phương. Trước đây, trách nhiệm thường không rõ ràng giữa cơ quan chuyên trách bảo vệ môi trường và chính quyền địa phương. Luật mới quy định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường tại địa phương do chính quyền địa phương đó chịu trách nhiệm hoàn toàn, cơ quan chuyên trách bảo vệ môi trường như Bộ Môi trường Sinh thái và các Sở ngành địa phương có trách nhiệm đánh giá, giám sát chất lượng môi trường và đưa ra các báo cáo xếp hạng hàng năm.

- Cơ quan bảo vệ môi trường cũng có thể ra các quyết định hạn chế sản xuất hay đình chỉ sản xuất nếu doanh nghiệp phát thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép.

- Tăng cường quyền hạn cho lực lượng chấp pháp bảo vệ môi trường, như quyền bắt tạm giữ 15 ngày đối với các đối tượng có hành vi xả thải ra môi trường trái phép. Nếu khối lượng và mức độ phát thải gây ô nhiễm môi trường vượt quá tiêu chuẩn 3 lần thì có thể xử lý hình sự.

- Miễn thuế và giảm trừ số tiền phải nộp thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào trang thiết bị xử lý ô nhiễm bảo vệ môi trường.

- Quy định về "3 đồng thời" đối với hệ thống thiết bị sản xuất và hệ thống thiết bị bảo vệ môi trường của doanh nghiệp là thiết kế, xây dựng lắp đặt và đưa vào sử dụng đồng thời. Doanh nghiệp phải lắp đặt hệ thống xử lý phát thải trước khi chính thức hoạt động sản xuất và có đăng ký với cơ quan bảo vệ môi trường.

3. Một số chính sách về bảo vệ môi trường ở Trung Quốc

- Thu phí phát thải và đang xây dựng phương pháp tính thuế bảo vệ môi trường;

- Tham khảo cách thức và quy định của Mỹ, EU trong vấn đề cấp phép phát thải;

- Xây dựng hệ thống giám sát phát thải trực tiếp trực tuyến tại các khu công nghiệp trọng điểm, các thành phố có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng;

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường. Luật Phòng chống ô nhiễm môi trường nước có hiệu lực từ ngày 1/1/2018, Luật Phòng chống ô nhiễm đất đai có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, Luật Phòng chống ô nhiễm không khí sửa đổi tháng 10/2018. Đồng thời đang trao đổi về việc thành lập cơ quan tố tụng riêng cho lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Tăng nguồn vốn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường và nghiên cứu phát triển các công nghệ xử lý ô nhiễm.

4. Sự hình thành Luật Kiểm soát và Phòng ngừa ô nhiễm nước

     Pháp luật về BVMT Trung Quốc được quy định tại nhiều đạo luật, trong đó, Luật BVMT được xem là “luật khung”, quy định những vấn đề chung, cơ bản, khái quát, còn việc bảo vệ, quản lý 4 thành phần quan trọng của môi trường gồm nước, không khí, chất thải rắn và tiếng ồn được quy định trong các đạo luật mang tính chuyên sâu, trong đó bảo vệ nguồn nước luôn là một ưu tiên trong quá trình phát triển hệ thống pháp luật về môi trường của Trung Quốc.

     Vào năm 1972, tình trạng ô nhiễm nước ở vịnh Đại Liên gây tổn thất nghiêm trọng cho ngành thủy sản và sự cố ô nhiễm nước tại sông Tùng Hoa gây ra bệnh Minamata cho người dân địa phương do ăn cá từ sông bị ô nhiễm. Nhận thấy việc kiểm soát ô nhiễm nước (KSONN) là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển đất nước, năm 1984, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Luật Kiểm soát và Phòng ngừa ô nhiễm nước (WPPCL) (1984) và Luật BVMT Biển (1999). Luật WPPCL có 7 chương và 46 điều là Luật đầu tiên của Trung Quốc về phòng chống và kiểm soát ô nhiễm, tập trung chủ yếu vào ô nhiễm công nghiệp. Luật WPPCL đã được sửa đổi lần đầu vào năm 1996, với 23 điều được điều chỉnh, bổ sung.

     Năm 2008, Luật WPPCL tiếp tục sửa đổi do hậu quả của việc ô nhiễm nước nghiêm trọng trên cả nước và các sự cố về ô nhiễm nguồn nước vẫn xảy ra thường xuyên, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Vào năm 2007, Dự thảo sửa đổi Luật WPPCL được trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc và sau đó, đã được công bố công khai để lấy ý kiến trên toàn quốc. Đây là lần đầu tiên một dự thảo luật môi trường đã được công bố công khai, lần đầu tiên toàn bộ công dân Trung Quốc tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật về môi trường. Trong vòng một tháng, Ban Pháp chế của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc đã nhận được hơn 1.400 ý kiến góp ý của nhân dân. Ngày 28/2/2008, Ủy ban đã bỏ phiếu để thông qua Luật WPPCL mới.

5. Vai trò của Luật Kiểm soát và Phòng ngừa ô nhiễm nước của Trung Quốc

     So với Luật WPPCL 1996, Bộ Luật năm 2008 có nội dung bao quát hơn, cấu trúc Luật hoàn chỉnh hơn, có nhiều điểm mới và cơ chế phạt nghiêm khắc hơn. Có thể tóm tắt 4 nội dung mới của Luật WPPCL 2008 như sau:

     Củng cố trách nhiệm BVMT của chính quyền địa phương: Theo Luật WPPCL 2008, chính quyền địa phương phải đưa BVMT nước vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và chính quyền sẽ chịu trách nhiệm về chất lượng nước trong khu vực quản lý tương ứng của mình. Luật cũng quy định lấy thành tích đạt được trong mục tiêu bảo vệ nước là một chỉ số để đánh giá hoạt động của chính quyền địa phương và cơ quan quản lý môi trường. Cụ thể, chính quyền địa phương phải ký cam kết trách nhiệm với Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu BVMT trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11, một trong số các mục tiêu đó là giảm nhu cầu ôxy hóa (COD) trong nước xuống 10% trong giai đoạn 2006 - 2010. Qua đó, Chính phủ sẽ xem xét các mục tiêu để đánh giá chính quyền địa phương trong việc thực thi nhiệm vụ của mình.

Bộ

TRÁCH NHIỆM CHÍNH

BVMT

Xây dựng các chính sách, quy định và tiêu chuẩn KSON; Giám sát chất lượng nước; Kiểm tra báo cáo ĐTM của các dự án thủy lợi; Tham gia các chính sách tài nguyên nước

Tài nguyên nước

Quản lý tài nguyên nước; Lập kế hoạch dự phòng cho tài nguyên nước; Quản lý dự án thủy lợi; Xây dựng chính sách thu phí tài nguyên nước; Phân bổ nước; Kiểm tra chất lượng và khối lượng nước mặt

Xây dựng

Giám sát quy hoạch và xây dựng kế hoạch xử lý nước thải; Quản lý nước uống ở các thành phố; Quản lý cấp nước và sử dụng nước ở các thành phố

Nông nghiệp

Kiểm soát nguồn nước ô nhiễm từ hoạt động nông nghiệp, bảo vệ tưới tiêu nông nghiệp

Tài chính

Tham gia quản lý phí nước thải, xây dựng các tiêu chuẩn về thuế

Giá

Quyết định lệ phí xử lý nước thái và giá tài nguyên nước

     Tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào công tác BVMT: Để giải quyết các vấn đề môi trường nghiêm trọng của Trung Quốc, bao gồm ô nhiễm môi trường nước, sự tham gia của cộng đồng trong công tác BVMT nước là rất quan trọng. Theo quy định của Luật WPPCL 2008, cộng đồng có quyền yêu cầu tiết lộ thông tin về chất lượng nước quốc gia một cách thống nhất. Bộ BVMT Trung Quốc có trách nhiệm ban hành các thông tin về tiêu chuẩn chất lượng nước quốc gia để tránh nhầm lẫn và bảo đảm công chúng được cung cấp thông tin chính xác và đáng tin cậy về chất lượng nước. Luật mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp môi trường. Bên cạnh đó, Luật có một điều khoản quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại môi trường. Theo Điều 88, nếu số lượng (lớn hơn 10) các bên có quyền lợi hợp pháp bị thiệt hại trong một sự cố ô nhiễm nguồn nước với mức độ tương đối lớn, các bên có thể lựa chọn một đại diện để nộp đơn kiện tập thể.

Đối với các đơn vị vi phạm pháp luật và gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước (nếu vụ việc là nghiêm trọng), chủ doanh nghiệp/nhà máy sẽ phải nộp khoản tiền phạt dưới 50 % doanh thu của doanh nghiệp trong năm trước đó. Luật mới cũng mở rộng các biện pháp thực thi bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp và được thực hiện bởi cơ quan môi trường địa phương. Ví dụ, Luật mới quy định, đối với các đơn vị thiết lập trái phép cống thoát nước hoặc đường ống ngầm, cơ quan môi trường địa phương hoặc Bộ BVMT phải ban hành lệnh dỡ bỏ trong một thời gian nhất định.

     Cải thiện một số công cụ quản lý: Theo Luật WPPCL 2008, để kiểm soát được hoàn toàn chất lượng nước dòng sông, hồ thì bắt buộc ngay cả các nhà máy đạt tiêu chuẩn cũng phải giảm lượng thải các chất gây ô nhiễm chính. Đồng thời, chính quyền địa phương cũng phải giảm thiểu và kiểm soát tổng lượng thải các chất gây ô nhiễm nước trong khu vực hành chính và Chính phủ chịu trách nhiệm tương ứng để giảm thiểu và kiểm soát tổng lượng thải các chất trong phạm vi quốc gia. Đối với những nơi có tổng lượng thải các chất gây ô nhiễm nước trên mức quy định, cơ quan BVMT địa phương sẽ phải dừng phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) đối với hạng mục công trình nào có thể làm tăng tổng lượng phát thải các chất gây ô nhiễm.

 Tài liệu tham khảo:

1. Pháp luật Nhật Bản, Trung Quốc về ô nhiễm không khí và gợi ý chính sách đối với Việt Nam; TS. Mai Hải Đăng - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Luật Kiểm soát và Phòng ngừa ô nhiễm nước của Trung Quốc - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; Nguyễn Thị Ái Phương - Chuyên gia thể chế môi trường (Nguồn: Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Kiểm soát ô nhiễm nước tại Việt Nam - Cơ hội và thách thức)