1. Khái quát chung về hành vi mua bán thông tin khách hàng
Thông tin khách hàng là những thông tin cá nhân (họ tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ, số điện thoại, thư điện tử...) mà người tiêu dùng cung cấp khi tương tác với các doanh nghiệp cung ứng sản xuất, dịch cụ. Doanh nghiệp thu thập thông tin khách hàng thông qua phiếu khảo sát, chương trình quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội hoặc nói chuyện trực tiếp. Những thông tin này được doanh nghiệp tổng hợp và lưu trữ nhằm mục đích cung cấp dịch vụ khách hàng, nghiên cứu nhu cầu thị trường hay tiếp thị sản phẩm.
Hành vi mua bán thông tin khách hàng là việc cá nhân, tổ chức mua, bán dữ liệu khách hàng của mình cho một bên thứ ba nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Việc mua bán thông tin khách hàng diễn ra theo nhiều hình thức và quy mô khác nhau. Trên thực tế, mỗi gói dữ liệu khách hàng có thể dao động từ vài trăm đến vài triệu đồng tùy vào số lượng và mức "tiềm năng" của khách hàng. Hành vi này bao gồm việc trao đổi, chuyển nhượng, chia sẽ dữ liệu về khách hàng với các bên có nhu cầu tìm kiếm khách hàng, mở rộng hoạt động kinh doanh. Trong quá trình mua thường dễ tiềm ẩn các rủi ro về nguy cơ mất an toàn thông tin và quyền riêng tư của khách hàng. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến dến cuộc sống, công việc của rất nhiều người, đe dọa sự ổn định và uy tín trong xã hội.
2. Mua bán thông tin khách hàng có vi phạm pháp luật không?
Theo Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đối với việc thu thập, lưu trữ, sử dụng các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của một người phải được sự đồng ý của người đó. Hoạt động trao đổi thông tin của người khác chỉ được thực hiện trong một số trường hợp luật quy định. Trong trường hơp tiến hành trao đổi dữ liệu thông tin, các bên không được phép sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình cũng như để ảnh hưởng tới bên còn lại. Điều này bảo đảm sự tôn trọng về quyền bảo mật và đời sống riêng tư của mỗi cá nhân.
Theo Điều 387 về thông tin trong giao kết hợp đồng, trong thời gian gian giao kết hợp đồng với doanh nghiệp một số thông tin cơ bản bao gôm tên, ngày sinh, địa chỉ, số điện thoại,... của khách hàng sẽ được cung cấp cho doanh nghiệp trước đó. Tuy nhiên, nếu chưa được khách hàng đó đồng ý thì doanh nghiệp vẫn phải có trách nhiệm bảo mật thông tin khách hàng và không được phép tự ý sử dụng để mua bán thu lợi nhuận hoặc sử dụng cho mục đích trái pháp luật khác vì các thông tin này là bí mật cá nhân, bất khả xâm phạm và không thể tùy tiện công khai.
Các doanh nghiệp thực hiện hành vi mua, bán thông tin khách hàng đã vi phạm nghiêm trọng đến bí mật cá nhân và đời sống riêng tư của khách hàng. Đồng thời, hoạt động này cũng vi phạm nội dung về quyền được bảo mật thông tin trong giao kết hợp đồng mà pháp luật đã quy định.
Theo Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 hành vi mua bán, trao đổi thông tin riêng tư của cá nhân trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sử hữu thông tin đó là một trong các hành hành vi cấu thành tội phạm của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng trên máy tính. Do đó, việc các cá nhân, tổ chức mua bán thông tin khách hàng là vi phạm pháp luật và có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật định.
Theo Luật An toàn thông tin mạng 2015 quy định về thu thập, sử dụng khai thác thông tin cá nhân của người khác để sử dụng với mục đích kích doanh là trái pháp luật và đã bị nghiêm cấm (Khoản 5 Điều 7 Luật An toàn thông tin mạng 2015). Như vậy, hành vi mua bán thông tin khách hàng trên mạng là xâm phạm về quyền riêng tư của khách hàng và vi phạm pháp luật về an toàn thông tin mạng.
Theo Điều 18 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 các tổ chức, cá nhân kinh doanh khi thu thập thông tin khách hàng phải sự dụng các thông tin này phù hợp với mục đích, phạm vi đã được thông báo và được sự đồng ý của khách hàng. Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo vệ thông tin và hông được phép chia sẻ, tiết lộ, chuyển giao thông tin khách hàng cho bên thứ ba (trừ các trường hợp được thỏa thuận, phù hợp với các quy định khác của pháp luật). Vì thế, mua bán thông tin cá nhân của khách hàng là hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật và lợi ích của khách hàng. Khách hàng bị rao bán, tiết lộ thông tin hoàn toàn có quyền phản ánh, khiếu nại về hành động sử dụng thông tin sai mục đích, ảnh hưởng tới bí mật cá nhân của mình do doanh nghiệp thực hiện.
Như vậy, theo các quy định pháp luật trên, hành vi mua bán thông tin khách hàng là hành vi bị nghiêm cấm, có vi phạm pháp luật. Chủ thể thực hiện hành vi này có thể bị xử phạt và truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Chế tài xử phạt đối với hành vi mua bán thông tin khách hàng
- Chế tài hành chính
Theo Khoản 5 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông: hành vi mua bán thông tin khách hàng có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng. Các cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi này có thể bị tước quyền sử dụng Giấy phép thiết lập mạng xã hội từ 22 tháng - 24 tháng và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Theo Điều 47 Nghị định số 143/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng: hành vi sử dụng thông tin khách hàng không đúng mục đích của các tổ chức tín dụng, chi nhành ngân hàng nước ngoài sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Ngoài ra chủ thể vi phạm bị buộc nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
- Chế tài hình sự
Những người có hành vi mua bán thông tin khách hàng có thể bị xử lý theo ĐIều 288 của Bộ luật Hình sự 2015 về tội sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông. Cụ thể người thực hiện hành vi mua bán, trao đổi thông tin riêng hợp pháp của cá nhân trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sử hữu thông tin đó thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Bên cạnh đó, việc mua bán thông tin của khách hàng chính là một trong những hành vi thu lợi bất chính, các đối tượng thực hiện hành vi này thông qua mạng viễn thông, mạng máy tính có thể bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tuỳ vào mức độ gây thiệt hại và số tiền thu lợi từ hành vi trái pháp luật trên. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những chế tài nghiêm khắc đối với hành vi mua bán thông tin khách hàng để ngăn chặn các cá nhân, tổ chức sử dụng trái phép những thông tin để trục lợi, tuy nhiên người tiêu dùng vẫn nên tỉnh táo, chủ động cảnh giác khi cung cấp thông tin cho người khác để đảm bảo các quyền riêng tư, bí mật cá nhân cũng như danh dự, uy tín của mình.
Xem thêm: Bán thông tin khách hàng có bị xử lý hình sự?
Nếu quý khách hàng còn thắc mắc về bất kỳ vấn đề pháp lý nào, vui lòng liên hệ qua tổng đài tư vấn 19006162 hoặc email lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ. Chúng tôi xin cam kết sẽ phản hồi và đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của quý khách. Xin trân trọng cảm ơn!