Mục lục bài viết
1. Khái niệm án treo
Xuất phát từ mục tiêu răn đe, giáo dục và tái hòa nhập tội phạm vào xã hội, chính phủ của chúng ta đã thiết lập chế định về án treo, thể hiện lòng khoan hồng và nhân đạo của pháp luật. Chế định này đã xuất hiện sớm trong lịch sử pháp luật hình sự của chúng ta. Ngày 14/02/1946, Sắc lệnh số 21/SL về tổ chức Tòa án quân sự do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã đưa ra quy định về việc án treo, thể hiện lòng khoan hồng của chính phủ. Chế định này đã được chính thức quy định lần đầu tiên trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và tiếp tục được điều chỉnh và bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 2015, nơi mà án treo được quy định cụ thể tại Điều 65.
Để thực hiện chế định này một cách thống nhất, Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao đã phát hành Nghị quyết số 02/VBHN-TANDTC ngày 07/9/2022 hướng dẫn việc áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Theo đó, án treo được hiểu là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, áp dụng cho người bị kết án tù không quá 03 năm, dựa trên nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của người phạm tội. Điều này có nghĩa là, trong khi giải quyết các vụ án hình sự, nếu tội phạm bị kết án không quá 03 năm, Tòa án có thể xem xét áp dụng án treo dựa trên các tình tiết như nhân thân và các yếu tố giảm nhẹ.
Xuất phát từ khái niệm tổng quan về án treo và dựa trên Nghị định 02/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính Phủ về hướng dẫn thi hành hình phạt tù áp dụng cho người được hưởng án treo, cùng với quy định của Điều 65, Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng, chúng ta có thể nhận định những đặc điểm chính của án treo như sau:
Thứ nhất, án treo không phải là một hình phạt mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Đây là một biện pháp giáo dục được áp dụng trong trường hợp không cần phải tách biệt người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù ở mức độ tương đối nhẹ. Bộ luật Hình sự của Việt Nam quy định bảy hình phạt chính, trong đó có hình phạt tù, vì vậy không thể coi án treo là một hình phạt. Thực tế, có những trường hợp bị cáo được kết án tù ở cấp sơ thẩm, sau đó khi kháng cáo, yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và được cho hưởng án treo. Quan trọng là phải xác định và giải thích rõ ràng trong yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt hoặc được hưởng án treo, vì án treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người phạm tội đáp ứng đủ các điều kiện được hưởng án treo theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành.
Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Do đó, người được hưởng án treo vẫn phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn chấp hành tại trại giam. Để được hưởng án treo, người bị kết án phải đáp ứng đủ các căn cứ và điều kiện quy định bởi pháp luật. Cụ thể, chỉ khi nào người bị kết án đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự thì họ mới được hưởng án treo, hay nói cách khác, được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện này.
Thứ ba, Toà án quyết định án treo phải đi kèm với một thời gian thử thách nhất định. Cụ thể, thời gian thử thách được tính bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được ít hơn 1 năm và không được quá 5 năm.
Thứ tư, trong suốt thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải được giám sát và giáo dục. Khi quyết định cho người phạm tội hưởng án treo, bản án phải quy định rõ việc giao bị cáo cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục trong suốt thời gian thử thách. Trong giai đoạn này, người bị kết án phải tuân thủ sự giám sát và giáo dục của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm (thường là Ủy ban nhân dân tại địa phương nơi người bị kết án cư trú). Trong thời gian thử thách này, người phạm tội phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định được quy định bởi pháp luật. Người bị kết án cũng phải chịu trách nhiệm về các hành vi vi phạm pháp luật mới trong thời gian thử thách, cụ thể là hình phạt tù được quy định trong bản án treo sẽ được chuyển đổi thành hình phạt tù và cộng thêm với hình phạt của bản án mới.
Ngoài ra, trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo có chủ ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên theo quy định của Luật Thi hành án hình sự, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù từ bản án treo.
2. Người bị án treo có được tiếp tục đi làm hay không?
Dựa theo Điều 88 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019, các điều khoản sau đây liên quan đến việc lao động và học tập của người được hưởng án treo được xác định cụ thể:
- Những người được hưởng án treo, bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức trong lực lượng quốc phòng và công an, cũng như những người lao động tiếp tục làm việc tại các cơ quan, tổ chức, sẽ được bố trí công việc để đảm bảo yêu cầu giám sát và giáo dục. Họ cũng được hưởng các quyền lợi như tiền lương và các chế độ khác phù hợp với công việc mà họ đảm nhiệm. Thời gian làm việc và thời gian tại ngũ sẽ được tính vào theo quy định của pháp luật.
- Người được hưởng án treo cũng được các cơ sở giáo dục như trường phổ thông và trường nghề tiếp nhận để học tập, và họ sẽ được hưởng các quyền lợi theo quy chế của cơ sở đó.
- Trong trường hợp người được hưởng án treo không thuộc các đối tượng được quy định tại điều khoản 1 và điều khoản 2, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú sẽ tạo điều kiện để họ có thể tìm kiếm việc làm.
- Những người được hưởng án treo thuộc đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi như người có công với cách mạng hoặc đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 41 của Bộ Luật Hình sự 2015, người bị kết án sẽ bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định nếu việc đó có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm có thể từ 1 đến 5 năm, tính từ ngày hoàn thành hình phạt hoặc từ ngày án kết án có hiệu lực nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ. Trong trường hợp được hưởng án treo, thời hạn cấm cũng được tính từ ngày án có hiệu lực.
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhằm khuyến khích cải tạo và trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, nó cũng mang tính răn đe và giáo dục. Vì vậy, mặc dù Nhà nước vẫn tạo điều kiện để người bị án treo làm việc, nhưng nếu công việc đó có thể gây nguy hại cho xã hội, họ sẽ bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định.
3. Quy định pháp luật liên quan
- Trường hợp bạn là công chức, viên chức:
Điều 3 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được bổ sung và sửa đổi năm 2019 quy định rằng nếu một công chức bị kết án tù mà không được án treo hoặc kết án về tội tham nhũng, họ sẽ bị buộc thôi việc từ ngày bản án, quyết định của tòa có hiệu lực pháp luật.
Tương tự, Điều 1 của Luật Viên chức sửa đổi và bổ sung năm 2010, được sửa đổi bổ sung vào năm 2019, quy định rằng nếu một viên chức bị kết án tù mà không được án treo hoặc kết án về hành vi tham nhũng, họ sẽ bị buộc thôi việc từ ngày bản án, quyết định của tòa có hiệu lực.
Do đó, nếu bạn là một công chức hoặc viên chức bị kết án nhưng được án treo và án này không liên quan đến hành vi tham nhũng, bạn sẽ không bị buộc thôi việc. Thay vào đó, tổ chức của bạn sẽ sắp xếp để bạn tiếp tục làm việc như thường lệ.
4. Hướng dẫn
Những người được án treo nên tham khảo ý kiến của luật sư để được tư vấn cụ thể về tình hình của mình. Trong quá trình thử thách, họ cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật, hoàn thành các nhiệm vụ được quy định và tích cực tham gia vào việc học tập, lao động, sửa chữa sai lầm hoặc đạt được thành tích trong công việc, bảo vệ an ninh, trật tự để có thể được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
Người được án treo chỉ có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách mỗi năm một lần, với mỗi lần rút ngắn từ 01 tháng đến 01 năm. Trong trường hợp thời gian thử thách còn lại ít hơn 01 tháng, có thể rút ngắn hết thời gian còn lại. Họ có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải đảm bảo rằng đã thực hiện đúng ba phần tư thời gian thử thách.
Bài viết liên quan: Án treo là gì? Điều kiện hưởng, thời gian thử thách của án treo
Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm theo dõi!