1. Bản ghi âm giọng nói có được coi là chứng cứ không?
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: "Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án".
Ngoài ra Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về nguồn chứng cứ, cụ thể như sau:
"Điều 87. Nguồn chứng cứ
1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác.
2. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự".
Như vậy căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì bản ghi âm giọng nói sẽ được coi là nguồn của chứng cứ.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự về nhận biết giọng nói và các vướng mắc pháp lý khác liên quan, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.
2. Như thế nào là nhận biết giọng nói
Nhận biết giọng nói là hoạt động điều tra viên tiến hành khi cần xác nhận người qua giọng nói của họ (Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Để việc nhận biết giọng nói được chính xác, khách quan, số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau. Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói.
Việc nhận biết giọng nói phải có sự tham gia của giám định viên về âm thanh; người được yêu cầu nhận biết giọng nói; người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường họp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm; người chứng kiến.
Nêu người được yêu cầu nhận biết giọng nói là người làm chứng, bị hại thì trước khi tiến hành, điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích này phải ghi vào biên bản.
Để có tài liệu đối chiếu, điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói. Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó.
Việc nhận biết giọng nói phải lập biên bản theo thủ tục chung. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình Vạng sức khoẻ của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thực hiện nhận biết giọng nói.
3. Khi nào cần tiến hành nhận biết giọng nói?
Nhận biết giọng nói là hoạt động điều tra viên tiến hành khi cần xác định người qua giọng nói của họ. Khoản 1 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trường hợp Điều tra viên có thể tiến hành nhận biết giọng nói, cụ thể như sau:
"Điều 191. Nhận biết giọng nói
1. Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói.
Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.
Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói".
Như vậy, trong quá trình điều tra, nếu nhận thấy có sự cần thiết Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói.
4. Những người nào phải than gia việc nhận biết giọng nói?
Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiếm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì phải ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói. Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về những người phải tham gia việc nhận biết giọng nói, cụ thể như sau:
"Điều 191. Nhận biết giọng nói
2. Những người sau đây phải tham gia việc nhận biết giọng nói:
a) Giám định viên về âm thanh;
b) Người được yêu cầu nhận biết giọng nói;
c) Người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm;
d) Người chứng kiến".
Như vậy ngoài việc phải có Kiểm sát viên có mặt để thực hiện việc kiểm sát quy trình nhận biết giọng nói thì quy trình nhận biết giọng nói cần phải có mặt của những người sau:
- Giám định viên về âm thanh
- Người được yêu cầu nhận biết giọng nói
- Người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp nhận biết giọng nói được thực hiện qua các phương tiện ghi âm
- Người chứng kiến.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự về nhận biết giọng nói và các vướng mắc pháp lý khác liên quan, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.
5. Quy trình nhận biết giọng nói được thực hiện như thế nào?
Việc nhận biết giọng nói trong hoạt động điều tra được quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành (cụ thể tại Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Điều 191 quy định như sau:
"Điều 191. Nhận biết giọng nói
1. Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói.
Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.
Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói.
2. Những người sau đây phải tham gia việc nhận biết giọng nói:
a) Giám định viên về âm thanh;
b) Người được yêu cầu nhận biết giọng nói;
c) Người được đưa ra để nhận biết giọng nói, trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm;
d) Người chứng kiến.
3. Nếu người làm chứng, bị hại được yêu cầu nhận biết giọng nói thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
4. Điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói.
Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó.
5. Biên bản nhận biết giọng nói được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thực hiện nhận biết giọng nói".
Như vậy trước khi tiến hành nhận biết giọng nói Điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng, bị hại biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối về việc nhận biết giọng nói. Việc giải thích này phải được ghi rõ vào biên bản. Điều tra viên phải hỏi trước những người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ vào đặc điểm đó họ có thể nhận biết được giọng nói. Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên không được đặt ra các câu hỏi mang tính chất gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số các giọng nói được đưa ra thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích rõ ràng rằng họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà có thể xác nhận được giọng nói đó.
Biên bản nhận biết giọng nói phải được lập theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự (cụ thể tại Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Nội dung của biên bản nhận biết giọng nói phải ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để tiến hành việc nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; các điều kiện về không gian khi thực hiện việc nhận biết giọng nói.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự về nhận biết giọng nói và các vướng mắc pháp lý khác liên quan, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê