1. Quy định về nhận dạng trong luật tố tụng hình sự trước đây

Nhận dạng thường được tiến hành trong trường hợp cần nhận dạng người, nhận dạng tử thi, nhận dạng đồ vật, súc vật, tài liệu, địa điểm. Có thể tiến hành nhận dạng trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhận dạng trực tiếp là cho người nhận dạng tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nhận dạng. Nhận dạng gián tiếp là nhận dạng thông qua ảnh, băng ghi âm, qua băng video. Việc nhận dạng phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định.

Số người, vật hoặc ảnh đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và về bề ngoài phải tương tự giống nhau. Đối với việc nhận dạng tử thi thì không áp dụng nguyên tắc này. Trong trường hợp đặc biệt có thể cho xác nhận người qua tiếng nói.

Nếu người làm chứng hay người bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích đó phải được ghi vào biên bản.

Trong khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hay ảnh đó. Việc tiến hành nhận dạng phải có mặt người chứng kiến.

Biên bản nhận dạng phải được lập theo quy định của pháp luật và cần ghi rõ nhân thân của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; nhưng đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng.

 

2. Quy định về nhận dạng theo luật tố tụng dân sự hiện nay

Nhận dạng là hoạt động điều tra bằng cách đưa người, vật hoặc ảnh cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can xác nhận người, vật hoặc ảnh đó (Điều 190, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Để việc nhận dạng đạt kết quả, điều tra viên phải lấy lời khai của người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng để làm rõ những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó, người nhận dạng có thể nhận dạng được cũng như làm rõ hoàn cảnh, điều kiện mà họ đã biết về những đặc điểm, vết tích ấy.

Để đảm bảo kết quả nhận dạng được khách quan, điều tra viên phải chọn đối tượng tương tự cùng đưa ra nhận dạng với đối tượng nhận dạng chính. Khi nhận dạng, số người, vật hoặc ảnh đưa ra ít nhất là ba và bề ngoài tương tự giống nhau. Riêng việc nhận dạng tử thi thì không áp dụng quy định này. Khi tiến hành nhận dạng phải có mặt người làm chứng, bị hại hoặc bị can, có mặt người chứng kiến, người chứng kiến phải là người không có liên quan đến vụ án. Điều tra viên phải thông báo cho viện kiểm sát cùng cấp biết và viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Nếu kiểm sát viên vắng mặt phải ghi rõ vào biên bản nhận dạng.

Nếu người nhận dạng là người làm chứng hoặc bị hại thì điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc khai báo gian dối. Việc giải thích này phải được ghi vào biên bản; đối với những người là đối tượng nhận dạng, điều tra viên yêu cầu họ phải giữ thái độ tự nhiên, nghiêm túc và không được có cử chỉ hoặc lời nói nào tác động đến tâm lí của người nhận dạng.

Trong quá trình nhận dạng, điều tra viên phải tạo điều kiện cho người nhận dạng có thời gian quan sát, suy nghĩ và không được đặt những câu hỏi có tính chất gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác định một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra thì điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hay ảnh đó. Điều tra viên so sánh với lời khai trước nếu thấy có mâu thuẫn thì yêu cầu họ giải thích.

Trong trường hợp có nhiều người nhận dạng phải bố trí từng người nhận dạng riêng, không được để cho họ tiếp xúc với nhau trong khi nhận dạng. Sau khi nhận dạng, điều tra viên phải lập biên bản nhận dạng như quy định đối với biên bản hỏi cung bị can nhưng cần ghi rõ nhân thân của người nhận dạng và những người được đưa ra để nhận dạng, những đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng, các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng.

 

3. Về trình tự, thủ tục tiến hành nhận dạng

Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được (khoản 4 Điều 190).

Việc hỏi trước giúp cho người nhận dạng có thời gian, điều kiện để nhớ lại các tình tiết, vết tích và đặc điểm của đối tượng mà họ đã tri giác trước đây; là cơ sở để kiểm tra, đánh giá lời khai của họ sau khi việc nhận dạng kết thúc và cũng để xác định lại việc có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không. Tuy vậy, quy định trên dẫn đến hai cách hiểu khác nhau khi áp dụng. Cách hiểu thứ nhất: Trong buổi nhận dạng, Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng, rồi sau đó mới cho họ bắt đầu nhận dạng. Cách hiểu thứ hai: Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng (chẳng hạn như Điều tra viên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng 10 ngày). Theo tác giả, Điều tra viên nên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng một thời gian hợp lý. Nếu thời gian từ khi hỏi đến khi tiến hành nhận dạng quá lâu thì họ có thể quên đi các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng.

Khi hỏi người nhận dạng, Điều tra viên cần hỏi thật kỹ họ về các tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng nhận dạng; các yếu tố khách quan trong khi họ tri giác đối tượng như ánh sáng, khoảng cách; các yếu tố chủ quan trong khi họ tri giác đối tượng...

- Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo việc tiến hành nhận dạng cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc nhận dạng (khoản 1 Điều 190).

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát để cử Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc nhận dạng. Việc bổ sung quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên, đồng thời bảo đảm hoạt động này thực hiện đúng quy định của pháp luật.

- Nếu người nhận dạng là người dưới 18 tuổi thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên còn phải thông báo cho người bào chữa, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự (Điều 420, 421).

- Nếu có người làm chứng hoặc bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản nhận dạng (khoản 3 Điều 190). Có nhiều nguyên nhân làm cho người làm chứng hoặc bị hại từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối: sợ bị trả thù, có mối quan hệ gia đình, bạn bè..., làm ảnh hưởng đến kết quả nhận dạng. Vậy nên, việc quy định như trên là cần thiết, bảo đảm sự đúng đắn trong lời khai của người làm chứng, bị hại.

- Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba, trừ trường hợp nhận dạng tử thi (khoản 1 Điều 190). Số người, ảnh hoặc vật đưa ra quá nhiều sẽ làm cho người được nhận dạng mất tập trung, khó khăn trong việc nhận dạng. Ngược lại, nếu đưa người, ảnh hoặc vật ra quá ít thì việc nhận dạng sẽ không được khách quan.

- Trong quá trình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Điều tra viên đặt câu hỏi gợi ý rất dễ làm cho người nhận dạng khai báo theo ý của Điều tra viên, làm ảnh hướng đến tính khách quan của kết quả nhận dạng. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.

- Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.

- Kết thúc việc nhận dạng, Điều tra viên phải lập biên bản. Biên bản nhận dạng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng; điều kiện ánh sáng khi thực hiện nhận dạng (khoản 5 Điều 190).

>> Xem thêm: Nhận dạng được thực hiện như thế nào trong tố tụng hình sự?

 

4. Những người phải tham gia việc nhận dạng

Những người phải tham gia việc nhận dạng được quy định tại khoản 2 Điều 190 BLTTHS năm 2015, gồm:

- Người nhận dạng: Có thể là người làm chứng, bị hại hoặc bị can. Nếu lựa chọn những người tham gia tố tụng khác như người bị bắt, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự... làm người nhận dạng thì kết quả nhận dạng sẽ không có giá trị pháp lý và không được dùng làm chứng cứ giải quyết vụ án. Tuy Điều 190 BLTTHS năm 2015 không quy định rõ nhưng theo tác giả, người nhận dạng phải đáp ứng các điều kiện, đó là: Họ phải là người đã tri giác và còn lưu giữ được những tình tiết, vết tích, đặc điểm của đối tượng cần nhận dạng; họ phải là người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; là người có khả năng tri giác; là người được Điều tra viên chọn làm người nhận dạng.

- Người chứng kiến: Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả nhận dạng và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Những người sau đây không được làm người chứng kiến việc nhận dạng: Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; người dưới 18 tuổi…

 

5. Đảm bảo quá trình nhận dạng

Quá trình nhận dạng phải tuân thủ trình tự, thủ tục do luật quy định. Trước khi cho một người nhận dạng, Điều tra viên phải hỏi người này về điều kiện hoàn cảnh có liên quan đến quá trình tri giác như thời gian quan sát, khoảng cách quan sát, điều kiện ánh sáng, thời tiết, màu sắc của đối tượng có ảnh hưởng gì cho việc nhận biết đối tượng không; những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được. Cần hỏi kỹ đặc điểm, vết tích có tính riêng biệt và tương đối ổn định của đối tượng nhận dạng. Những đặc điểm, vết tích này có giá trị cao khi đánh giá kết quả nhận dạng.

Để đảm bảo tính khách quan, trong quá tình tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý cho người nhận dạng. Đối tượng được nhận dạng có thể được đưa ra lần lượt hoặc đưa đồng loạt cùng lúc. Khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó. Điều tra viên đối chiếu các vết tích, đặc điểm của người, vật, ảnh đã nhận dạng được xem có phù hợp với những vết tích, đặc điểm mà người nhận dạng đã khai báo trước khi nhận dạng để đánh giá tính chính xác của kết quả nhận dạng.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự, nhận dạng trong tố tụng hình sự. Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể. Trân trọng./.