1. Khái quát chung về nợ xấu

Nợ xấu là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trên thế giới như “Non- performing loans” (NPL), “bad debt”, “doubtful debt” chỉ các khoản nợ khó đòi (Fofack, 2005) hoặc các khoản vay có vấn đề (Berger và De Young, 1997) hoặc khoản nợ không trả được (defaulted loans) mà ngân hàng không thể thu lợi từ nó (Ernst & Young, 2004) hay các khoản cho vay bắt đầu được đưa vào nợ xấu khi đã quá hạn trả nợ gốc và lãi 90 ngày trở lên (Peter Rose, 2004); Mishkin, 2010). 

Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.

Hiện tại không có một quy tắc hay chuẩn mực thống nhất khi thảo luận về vấn đề nợ xấu. Có thể đề cập đến một số khái niệm về nợ xấu như sau:Theo hướng dẫn để tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF): “Một khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ không được thực hiện đầy đủ”. (IMF's Comilation Guide on Fniancial Soundness Indicators, 2004). Với quan điểm này, nợ xấu được nhận dạng qua hai góc độ là thời gian quá hạn và khả năng trả nợ đáng nghi ngờ. Đồng quan điểm của IMF, nhóm chuyên gia tư vấn (AEG) của Liên hợp quốc cho rằng “về cơ bản, một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày, hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận, hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản nợ sẽ được thanh toán đầy đủ” (Advisory Expert Group (AEG), 2004).

Salas và Suarina (2002) dùng dữ liệu bảng, so sánh các yếu tố quyết định của nợ xấu (vĩ mô và nội tại) ở các ngân hàng thương mại và Quỹ tiết kiệm Tây Ban Nha trong giai đoạn 1985 – 1987. Nghiên cứu chỉ ra rằng GDP và nợ xấu có mối quan hệ ngược chiều, khi GDP tăng thì nợ xấu giảm và ngược lại; Quy mô của ngân hàng tác động tiêu cực lên nợ xấu, tăng trưởng tín dụng là yếu tố quan trọng quyết định tỷ lệ nợ xấu.

Roland Beck, Petr Jakubik và Anamaria Piloiu (2013) sử dụng bộ dữ liệu của 75 quốc gia trong giai đoạn 2005 – 2010 để nghiên cứu các yếu tố tác động đến nợ xấu. Nghiên cứu sử dụng kĩ thuật thống kê mômen tổng quát với cách tiếp cận theo mô hình hai bước được đề xuất bởi Arellao – Bond. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nợ xấu với độ trễ một năm và lãi suất cho vay có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu. Không chỉ vậy, nghiên cứu cũng tìm thấy tác động ngược chiều của tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đến tỷ lệ nợ xấu ở các quốc gia này.

Ahlem Selma Messai và Fathi Jouini (2013) sử dụng dữ liệu 85 ngân hàng trong ba nước (Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha) trong giai đoạn 2004 – 2008 để nghiên cứu. Ba nước đã đề cập đại diện cho các nước gặp nhiều bất ổn sau khủng hoảng 2008. Các ngân hàng được lựa chọn là các ngân hàng lớn và có số lượng nợ xấu lớn. Các biến kinh tế vĩ mô gồm tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lãi suất cho vay thực và các biến vi mô gồm tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), sự thay đổi trong các khoản vay và tỷ lệ dự phòng rủi ro. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng lãi suất cho vay, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng tác động thuận chiều với tỷ lệ nợ xấu. Đồng thời, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, ROA tỷ lệ nghịch với nợ xấu tại các nước này.

Klein (2013) đã thực hiện ba phương pháp ước lượng là FE, DGMM của Arellano và Bond (1991), SGMM của Arellano & Bover (1995), Blundell & Bond (1998) và thu thập dữ liệu từ 10 ngân hàng ở mỗi quốc gia trên tổng 16 quốc gia để nghiên cứu các nhân tố tác động đến nợ xấu ở khu vực Trung, Đông và Đông Nam châu Âu. Các yếu tố tác động đến nợ xấu của ngân hàng gồm các yếu tố đặc trưng của ngân hàng (ROE, tổng dư nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng), các yếu tố vĩ mô đặc trưng của mỗi quốc gia (tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ hối đoái) và các yếu tố vĩ mô đặc trưng của khu vực (tốc độ tăng trưởng GDP thực của khu vực châu Âu, chỉ số cổ phiếu 500 của Standard & Poor – VIX). Kết quả ước lượng cho thấy ROE tỷ lệ nghịch với tỷ lệ nợ xấu. Ngược lại, tổng dư nợ trên tổng tài sản, tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực tác động đáng kể đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp.

Makri và cộng sự (2014), nghiên cứu các yếu tố tác động đến nợ xấu của 17 quốc gia khu vực Châu Âu giai đoạn 2000 – 2008. Nghiên cứu xác định được mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ nợ xấu với tăng trưởng GDP; và cùng chiều với tỷ lệ thất nghiệp. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cho thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ xấu với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ nợ xấu năm trước và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Khi GDP tăng trưởng thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng có xu hướng giảm.

Ekanayake (2015) thực hiện nghiên cứu với mẫu nghiên cứu 9 ngân hàng thương mại tại Sri Lanka giai đoạn năm 1999 đến năm 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu do tác động của cả các yếu tố vĩ mô và yếu tố vi mô cụ thể bên trong ngân hàng. Trong các yếu tố vĩ mô GDP và lạm phát có tác động tiêu cực (theo nghiên cứu này thì trong tình hình lạm phát cao thì tỷ lệ nợ xấu lại thấp hơn so với các thời điểm khác) và lãi suất cho vay có tác động tích cực với nợ xấu.

Fillip (2015) thiết kế và thử nghiệm hai mô hình kinh tế với xử lý dữ liệu bảng đối với trường hợp Romania và châu Âu trong giai đoạn 2000 – 2012. Kết quả của nghiên cứu cho thấy mối tương quan nghịch chiều có ý nghĩa giữa sự biến động của tỷ lệ nợ xấu và mức tăng trưởng GDP thực; sự thuận chiều với sự biến động tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát.

Ghosh (2015) thực hiện nghiên cứu cho tất cả các NHTM và các tổ chức tiết kiệm trên 50 tiểu bang Hoa Kỳ và các quận thuộc Columbia trong giai đoạn 1984 – 2013. Về các yếu tố vĩ mô tác giả cho rằng tăng trưởng GDP và tăng trưởng thu nhập cá nhân và tăng giá nhà ở tỷ lệ nghịch với nợ xấu; trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp, và nợ công Mỹ tăng làm tăng đáng kể nợ xấu. Hơn nữa, tác giả thấy vốn hóa lớn hơn, rủi ro thanh khoản, chất lượng tín dụng kém, chi phí không hiệu quả lớn hơn và quy mô ngành ngân hàng làm tăng đáng kể nợ xấu, trong khi lợi nhuận ngân hàng lớ hơn làm giảm nợ xấu.

Vithessonthi (2016) thực hiện nghiên cứu sử dụng hồi quy OLS và hồi quy hai bước GMM cho dữ liệu bảng gồm 82 NHTM niêm yết công khai tại Nhật Bản trong giai đoạn 1993 – 2013. Nghiên cứu cho thấy tăng trưởng tín dụng ngân hàng tương quan cùng chiều với các khoản nợ xấu trước khi bắt đầu đầu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007, nhưng tương quan nghịch chiều với các khoản nợ xấu sau khi bắt đầu cuộc khủng hoảng. Kết quả cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 đã làm thay đổi mối liên hệ giữa tăng trưởng tín dụng và nợ xấu. Một ngụ ý của những kết quả này là cuộc khủng hoảng này đã thay đổi cơ chế cho vay ngân hàng ảnh hưởng đến các khoản nợ xấu cho các ngân hàng tại Nhật Bản. Điều này được cho là do các nước đang chịu áp lực giảm phát để kích thích tăng trưởng kinh tế nhưng có liên quan đến nguy cơ tiềm ẩn lớn hơn trong hệ thống ngân hàng do tăng nguồn cung, tác giả nhấn mạnh thực tế là tăng trưởng tín dụng ngân hàng không phải lúc nào cũng dẫn đến mức nợ xấu cao hơn. Ngoài ra, tác giả còn khẳng định tăng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và nợ xấu không ảnh hưởng đến lợi nhuận.

Trong khi đó, Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, họ không đưa ra một định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Nhưng trong các hướng dẫn về hoạt động quản lý nợxấu tại một số quốc gia, họ cho rằng một khoản nợ được coi là không có khả năng hoàn trả khi xảy ra một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau:

Một là, ngân hàng xác định người đi vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện bất cứ động thái gì để thu hồi nợ như xử lý tài sản bảo đảm.

Hai là, người vay đã quá hạn trả nợ (trên 90 ngày).

Tại Việt Nam, theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nợ xấu4 được định nghĩa là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Trong đó, về định lượng, nợ nhóm 3 là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; nợ nhóm 4 là các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ nhóm 5 là các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.

Như vậy, theo phương pháp định lượng, cách xác định nợ xấu từ 90 ngày trở lên khá tương đồng giữa khái niệm của các tổ chức trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Tuy nhiên, để đánh giá một cách chính xác và toàn diện hơn thì cũng cần xem xét đến khả năng trả nợ của khách hàng.

2. Tác động của nợ xấu

Nợ xấu ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến rất nhiều chủ thể. Đầu tiên là bản thân các ngân hàng và khách hàng đi vay, sau đó là tác động đến cả nền kinh tế.

2.1 Nợ xấu tác động đến ngân hàng

Việc không thu hồi được nợ (gốc hoặc/và lãi và các khoản phí) làm cho nguồn vốn của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị sụt giảm. Nếu lợi nhuận không đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các NHTM.

Mặc khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực tài chính của ngân hàng bị suy giảm, dẫn đến giảm khả năng huy động vốn của ngân hàng, nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, đẩy ngân hàng đến bở vực phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

2.2 Nợ xấu tác động đến khách hàng

Đối với bản thân chủ thể không có khả năng hoàn trả vốn và/hoặc lãi cho ngân hàng thì họ gần như không có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng và thậm chí là cả những nguồn khác trong nền kinh tế do đã mất đi uy tín.

Cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn chế hơn khi rủi ro tín dụng buộc các NHTM hoặc thắt chặt cho vay hay thậm chí phải thu hẹp quy mô hoạt động.

Các chủ thể gửi tiền vào ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản tiền gửi và lãi nếu như các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.

Chính những ảnh hưởng nghiêm trọng của nợ xấu dẫn đến tầm quan trọng trong công tác quản lý nhằm hạn chế tối thiểu việc phát sinh các khoản nợ xấu.

2.3 Tác động của nợ xấu đến nền kinh tế

Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ đối với nền kinh tế, là kênh thu hút và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Do đó, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.

Ở mức độ thấp, khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình và vô hình đối với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình, việc các tài sản cầm cố tại ngân hàng sẽ ngày càng bị hao mòn, hư hỏng, giá trị sẽ giảm dần. Nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các tài sản này sẽ được đem ra sử dụng nhanh chóng, tạo nên giá trị và giá trị thăng dự cho nền kinh tế. Về vô hình, khi quá trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của Việt Nam sẽ khó mà duy trì được mức tín nhiệm như hiện tại. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường đầu tư.

Mặc khác, rủi ro tín dụng khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Việc điều tiết vĩ mô kinh tế thông qua các NHTM cũng trở nên kém hiệu quả (Se-Hark Park, 2003).

Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến phá sản thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây nên khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước. Sự gia tăng nhanh chóng của nợ xấu là một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng khoảng ngân hàng (González-Hermosillo, B, 1999). Lịch sử hoạt động của các NHTM trên thế giới đã chứng kiến không ít các ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực hay toàn cầu.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật Minh Khuê