1. Mối quan hệ giữa năng lực trách nhiệm hình sự với tuổi chịu trách nhiệm hình sự?

Con người sinh ra không phải là tự có ngay được năng lực nhận thức và điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội mà “ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội và vẫn còn là một sản phẩm xã hội chừng nào nói chung con người còn tồn tại” Xem EĂngghen, Hệ tư tưởng Đức, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.24..

Con người sống trong xã hội với cấu tạo sinh học của mình đã có khuynh hướng hình thành và phát triển năng lực nói trên nhưng phải thông qua quá trình hoạt động và giáo dục trong môi trường xã hội với một thời gian nhất định. Sống trong xã hội với tuổi đời nhất định con người có khả năng nhận thức được đòi hỏi tất yếu của xã hội và trên cơ sở nhận thức đó có năng lực điều khiển được hành vi xử sự phù hợp với đòi hỏi tất yếu của xã hội. Nhưng năng lực này cũng có thể bị hạn chế hoặc bị loại trừ nếu hoạt động của bộ não bị rốỉ loạn do bệnh tật.

Như vậy năng lực trách nhiệm hình sự chỉ hình thành khi con người đạt độ tuổi nhất định và năng lực đó cần được hoàn thiện trong một khoảng thời gian nhất định tiếp theo. Khi đạt độ tuổi đó con người nói chung có năng lực trách nhiệm hình sự, trừ một số trường hợp nhất định được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Luật hình sự của nhiều nước trên thế giới đều có quy định về tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Người ta căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người ở mỗi quốc gia và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm để quy định về tuổi bắt đầu có năng

lực trách nhiệm hình sự và tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Độ tuổi này được xác định tùy thuộc ở mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ khác nhau (Anh từ 8 tuổi, Mỹ từ 7 tuổi, Thụy Điển từ 15 tuổi, Nga từ 14 tuổi, Pháp từ 13 tuổi, các nước đạo Hồi như Ai Cập, Libăng, I-Rắc từ 7 tuổi).

Việt Nam căn cứ vào: thành tựu pháp luật, thực tiễn, tham khảo các nước, chính sách hình sự của Nhà nước ta quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015.

+ Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ, chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình... nên chưa được coi là có lỗi vì vậy chưa đủ cấu thành tội phạm nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

+ Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật.

2. Người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì “người tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có” không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chữa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015?

 

- Khẳng định sai. Bởi vì:

Theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ lắ do ngừòi khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phặt cải tạo không giam giữ đến 03 nằm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC- TANDTC ngày 30/11/2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân •

tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ...) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua); 2. “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có ” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bấn, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.

Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng dẫn nêu trên thì mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và hộ đã bị xử lý hình sựhay chưa. Do vậy, trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

>> Tham khảo: Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự? Người chưa thành niên có bị truy tố?